Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tiểu luận vai trò của tri thức khoa học công nghệ đối với việc phát triển kinh tế ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.55 KB, 27 trang )

Tiểu luận triết học

VAI TRỊ CỦA TRI THỨC KHOA
HỌC CƠNG NGHỆ ĐỐI VỚI VIỆC
PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY

1


I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thế giới đã bước vào thế kỷ 21 với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ (KH - CN). Ngày nay KH - CN được ứng dụng rất nhiều vào cuộc
sống của con người. Đặc biệt, ứng dụng tri thức KH - CN trong phát triển kinh
tế là một hướng đi đúng.
Ở các nước phát triển hiện nay, nền kinh tế phát triển có ứng dụng tri
thức KH - CN. Đối với Việt Nam đang trong quá trình phát triển nền kinh tế
theo định hướng XHCN, mặc dù đã đạt được những thành tựu to lớn trong 15
năm đổi mới vừa qua, song nền kinh tế vẫn còn kém phát triển so với các nước
khu vực và thế giới, đồng thời đang gặp phải những thách thức khơng nhỏ: đó là
nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực do xuất phát
của Việt Nam quá thấp, lại phải phát triển trong môi trường cạnh tranh quyết
liệt. Sự khác biêt về trình độ cơng nghệ của Việt Nam so với các nước phát triển
là rất lớn, nhìn chung cơng nghệ nước ta tục hậu so với trình độ chung của thế
giới khoảng 3, 4 thập kỷ.
Quá trình CNH - HĐH dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao
động giữa các ngành, đặc biệt là sự chuyển lao động từ nông nghiệp sang các
lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010 là đẩy mạnh nhanh q trình đổi mới kỹ thuật cơng nghệ
trong sản xuất, mở rộng các khu công nghiệp, khu chế suất đưa Việt Nam trở
thành một nước có trình độ KTCN ở trung bình tiên tiến so với các nước trong
khu vực. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng trưởng công nghiệp và
dịch vụ, giảm tỷ trọng của nông nghiệp trong GDP, đồng thời điều chỉnh cơ cấu


lao động đến năm 2010 chỉ còn khoảng 50% lao động trong lĩnh vực nông
nghiệp.
Hội nhập nền kinh tế thế giới đang là một xu thế tất yếu của thời đại. Vì
vậy bên cạnh sử dụng năng lực nội sinh, các nước đang phát triển như Việt
Nam, khơng có con đường nào khác phải biết vận dụng những thành tựu của
khoa học công nghệ và phải bắt kịp tri thức mới để phát triển nhanh nền kinh tế.

2


Vì vậy vấn đề đặt ra cho Việt Nam hiện nay là phát triển nguồn nhân lực có tri
thức, trình độ, tay nghề cho sjư phát triển nền kinh tế
Quá trình phát triển nền kinh tế nước ta đầu thế kỷ XXI trong điều kiện
của kinh tế tri thức theo tinh thần Đại hội Đảng IX là “Cơng nghiệp hóa gắn với
hiện đại hóa ngay từ bây giờ và trong suốt các giai đoạn. Nâng cao hàm lượng
tri thức trong các nhân tố phát triển kinh tế - xã hội, từng bước phát triển kinh tế
tri thức ở nước ta”. [Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX].
Tại Đại hội lần thứ IX, Đảng ta đã đưa ra chiến lược phát triển kinh tế
nêu rõ: “Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt
trình độ cơng nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh
học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn, phổ biến hơn
những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri
thức”. [Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX - NXB Chính trị Quốc
gia Hà Nội, 2001].
Do đó KH - CN được coi là nền tảng và động lực của sự nghiệp CNH HĐH ở Việt Nam. Nhiệm vụ phát triển tri thức KH - CN là một nhiệm vụ cấp
thiết hiện nay, và gắn chặt hơn nữa KH - CN với kinh tế xã hội.

3



II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Nội dung lý luận triết học
a. Ý thức
Trong lịch sử triết học, triết học duy tâm quan niệm ý thức là một thực
thể độc lập, là thực tại duy nhất, từ đó cường điệu tính năng động của ý thức
đến mức coi ý thức sinh ra vật chất chứ không phải là sự phản ánh của vật chất.
Còn các nhà triệt học duy vật đều thừa nhận vật chất tồn tại khách quan và ý
thức là sự phản ánh sự vật đó. Tuy nhiên, do ảnh hưởng bởi quan niệm siêu hình
- máy móc nên họ đã coi ý thức là sự phản ánh sự vật một cách thụ động, giản
đơn, máy móc, mà khơng thấy được tính năng động sáng tạo của ý thức, tính
biện chứng của q trình phản ánh.
Khách với các quan điểm trên, chủ nghĩa duy vật biện chứng dựa trên cơ
sở lý luận phản ánh coi ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong
bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo.
Ý thức theo nghĩa thông thường theo một số quan niệm của khoa học
chuyên ngành, ý thức thờng được hiểu là tính có chủ ý. Nhưng theo nghĩa triết
học được hiểu theo nghĩa là toàn bộ những sự phản ánh tinh thần của con người
về thế giới khách quan. Phản ánh là năng lực, khả năng của một hệ thống vật
chất ghi nhận và tái hiện những đặc điểm, những tính chất của một hệ thống
khác. Phản ánh là nhiệm vụ phổ biến của một tổ chức.
Xét về cấu trúc ý thức bao gồm những yếu tố; tri thức, sự hiểu biết, tâm
lý, tình cảm, ý chí con người, lý tưởng, ước mơ con người. Trong đó nhân tố tri
thức là trung tâm bao hàm biểu hiện nhất định. Tri thức là nhân tố quan trọng
nhất của ý thức, bất cứ một hình thức phản ánh của ý thức chỉ là tồn tại một khi
trong nó có tri thức.
b. Bản chất của ý thức.
Theo Mac nói: “Ý thức chẳng qua là cái vật chất được di chuyển vào bộ
óc con người và cải biến đi ở trong đó”. Cịn theo Lênin: “Ý thức là hình ảnh
chủ quan”.
4



Để hiểu bản chất của ý thức, trước hết, chúng ta thừa nhận cả vật chất và
ý thức đều là “hiện thực” nghĩa là đều tồn tại. Nhưng giữa chúng có sự khác
nhau mang tính đối lập. Ý thức là sự phản ánh, là cái phản ánh; còn vật chất là
cái được phản ánh. Cái được phản ánh - tức là vật chất - tồn tại khách quan, ở
ngoài và độc lập với cái phản ánh tức là ý thức. Cái phản ánh - tức là ý thức - là
hiện thực chủ quan, là hình ảnh chủ quan hay hình ảnh tinh thần của sự vật
khách quan, lấy cái khách quan làm tiền đề, bị cái khách quan quy định, khơng
có tính vật chất. Vì vậy khơng thể đồng nhất, hoặc tách rời cái được phản ánh tức vật chất, với cái phản ánh - tức ý thức. Nếu coi cái phản ánh - tức ý thức - là
hiện tượng vật chất thì sẽ lẫn lộn giữa cái được phản ánh và cái phản ánh - tức
lẫn lộn giữa vật chất và ý thức, làm mất ý nghĩa của đối lập giữa vật chất và ý
thức, từ đó dẫn đến làm mất đi sự đối lập giữ chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm.
Thứ hai, khi nói cái phản ánh - tức ý thức - là hình ảnh chủ quan của thế
giới khách quan, thì nó khơng phỉa là hình ảnh vật lý hay hình ảnh tâm lý động
vật về sự vật. Ý thức là của con người, mà con người là một thực thể xã hội
năng động sáng tạo. Ý thức ra đời trong quá trình con người hoạt động cải tạo
thé giới, cho nên ý thức con người mang tính năng động, sáng tạo lại hiện thực
theo nhu cầu thực tiễn xã hội. Theo C.Mac, ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất
được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó”(1).
Tính sáng tạo của ý thức thể hiện ra rất phong phú. Trên cơ sở những cái
đã có trước, ý thức có khả năng tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng
ra cái khơng có trong thực tế, có thể tiên đốn, dự báo tương lai, có thể tạo ra
những ảo tưởng, những huyền thoại, những giả thuyết lý thuyết khoa học hết
sức trìu tượng và khái quát cao. Những khả năng ấy càng nói lên tính chất phức
tạp và phong phú của đời sống tâm lý - ý thức ở con người mà khoa học còn
phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu để làm sáng tỏ bản chất của những hiện tượng
ấy.


5


Ý thức ra đời trong quá trình con người hoạt động cải tạo thế giới, cho
nên quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người là quá trình năng
động sáng tạo thống nhất ba mặt sau:
Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao đổi
này mang tính chất hai chiều, có định hướng, có chọn lọc các thơng tin cần
thiết.
Hai là, mơ hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần.
Thực chất, đây là quá trình “sáng tạo lại” hiện thực của ý thức theo nghĩa: mã
hóa các đối tượng vật chất thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất.
Ba là, chuyển mơ hình từ tư duy ra hiện thức khách quan, tức quá trình
hiện thực hóa tư tưởng, thơng qua hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm thành
cái thực tại, biến các ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất
ngoài hiện thực. Trong giai đoạn này, con người lựa chọn những phương pháp,
phương tiện, công cụ để tác động vào hiện thực khách quan nhằm thực hiện
mục đích của mình.
Tính sáng tạo của ý thức khơng có nghĩa là ý thức đẻ ra vật chất. Sáng tạo
của ý thức là sáng tạo của sự phản ánh, theo quy luật và trong khuôn khổ của sự
phản ánh mà kết quả bao giờ cũng là những khách thể tinh thần. Sáng tạo và
phản ánh là hai mặt thuộc bản chất ý thức. Ý thức là sjư phản ánh vào chính
thực tiễn xã hội của con người tạo ra sự phản ánh phức tạp, năng động, sáng tạo
của bộ óc.
Ý thức là một hiện tượng xã hội. Sự ra đời, tồn tại của ý thức gắn liền với
hoạt động thực tiễn lịch sử, chịu sự chi phối không chỉ các quy luật sinh học mà
chủ yếu là của quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh
hoạt hiện thực của con người quy định. Ý thức mang bản chất xã hội.
c. Nguồn gốc của ý thức
 Nguốc gốc tự nhiên


(1)

C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993. t.23, tr. 35
6


Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức sinh
ra vật chất, chi phối sự tồn tại và vận động của thế giới vật chất. Học thuyết triết
học duy tâm khách quan và triết học duy tâm chủ quan có quan niệm khác nhau
nhất định về ý thức, song về thực chất họ giống nhau ở chỗ tách ý thức ra khỏi
vật chất, lấy ý thức làm điểm xuất phát để suy ra giới tự nhiên.
Các nhà duy vật trước Mác đã đấu tranh phê phán lại quan điểm trên của
chủ nghĩa duy tâm, khơng thừa nhận tính chất siêu tự nhiên của ý thức, đã chỉ ra
mối liên hệ khăng khít giữa vật chất và ý thức, thừa nhận vật chất có trước ý
thức, ý thức phụ thuộc vào vật chất. Do khoa học chưa phát triển, do ảnh hưởng
của quan điểm siêu hình - máy móc nên họ đã khơng giải thích đúng nguồn gốc
và bản chất của ý thức.
Dựa trên cơ sở những thành tựu của khoa học tự nhiên, nhất là sinh lý học
thần kinh, chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, ý thức khơng phải có nguồn
gốc siêu tự nhiên, không phải ý thức sản sinh ra vật chất như các nhà thần học
và duy tâm khách quan đã khẳng định mà ý thức là một thuộc tính của vật chất,
nhưng khơng phải là của mọi dạng vật chất, mà chỉ là thuộc tính của một dạng
vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người. Bộ óc người là cơ quan vật chất của
ý thức. Ý thức là chức năng của bộ óc con người. Ý thức phụ thuộc vào hoạt
động bộ óc người, do đó khi óc bị tổn thương thì hoạt động của ý thức sẽ khơng
bình thường. Vì vậy, khơng thể tách rời ý thức ra khỏi hoạt động của bộ óc. Ý
thức không thể diễn ra, tách rời hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người.
Khoa học đã xác định, con người là sản phẩm cao nhất của quá trình phát
triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp của vật chất vận động, đồng thời

đã xác định bộ óc của con người là một tổ chức sống đặc biệt có cấu trúc tinh vi
và phức tạp bao gồm khoảng 14-15 tỷ tế bào thần kinh. Các tế bào này có liên
hệ với nhau và với các giác quan, tạo thành vô số những mối liên hệ thu nhận,
điều khiển hoạt động của cơ thể trong quan hệ với thế giới bên ngồi qua các
phản xạ khơng điều kiện và có điều kiện. Q trình ý thức và q trình sinh lý
trong bộ óc khơng đồng nhất, không tách rời, không song song mà là hai mặt
7


của một quá trình sinh lý thần kinh mang nội dung ý thức. Khi khoa học - kỹ
thuật tạo ra những máy móc thay thế cho một phàn lao động trí óc của con
người thì khơng có nghĩa là máy móc có ý thức như con người. Máy móc là một
kết cấu kỹ thuật do con người tạo ra, còn con người là một thực thể xã hội. Máy
không thể thay thế cho hoạt động trí tuệ của con người, không thể sáng tạo lại
hiện thức dưới dạng tinh thần trong bản thân nó như con người. Do đó chỉ có
con người với bộ óc của nó mới có ý thức.
Nhưng tại sao bộ óc con người - một tổ chức vật chất cao - lại có thể sinh
ra được ý thức? Để trả lời câu hỏi này chúng ta phải nghiên cứu mối liên hệ vật
chất giữa bộ óc với thế giới khách quan. Chính mối liên hệ vật chất ấy hình
thành nên quá trình phản ánh thế giới vật chất vào óc con người.
Phản ánh là thuộc tính phổ biến trong mọi dạng vật chất. Phản ánh là sự
tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở hệ thống vật chất khác
trong quá trình tác động qua lại của chúng. Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc
vào cả hai vật. (vật tác động và vật nhận tác động). Trong quá trình ấy, vật nhận
tác động bao giờ cũng mang thông tin của vật tác động. Đây là điều quan trọn
để làm sáng tỏ nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Trong quá trình tiến hóa của thế giới vật chất. Các vật thể càng ở bậc
thang cao bao nhiêu thì hình thức phản ánh của nó càng phức tạp bấy nhiêu.
Hình thức phản ánh đơn giản nhất, đặc trưng cho giới tự nhiên vô sinh là những
phản ánh vật lý, hóa học. Những hình thức phản ánh này có tính chất thụ động,

chưa có định hướng sự lựa chọn. Hình thức phản ánh sinh học đặc trưng cho
giới tự nhiên sống là bước phát triển mới về chất trong sự tiến hóa của các hình
thức phản ánh. Hình thức phản ánh của các cơ thể sống đơn giản nhất là biểu
hiện ở tính kích thích, tức là phản ứng trả lời tác động của mơi trường ở bên
ngồi có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình trao đổi chất của chúng. Hình thức
phản ánh tiếp theo của các động vật chưa có hệ thần kinh là tính cảm ứng, tính
nhạy cảm đối với sự thay đổi của mơi trường. Hình thức phản ánh của các động
vật có hệ thống thần kinh là các phản xạ. Hình thức phản ánh ở động vật bậc
8


cao khi có hệ thần kinh trung ương xuất hiện là tâm lý. Như vậy, phản ánh sinh
học trong các cơ thể sống đã có sự định hướng, sự lựa chọn, nhờ đó các sinh vật
thích nghi với mơi trường để duy trì sự tồn tại của mình. Phản ánh sinh học
được thực hiện thơng qua các hình thức kích thích ở thực vật, các phản xã ở
động vật có hệ thống thần kinh và tâm lý ở động vật cấp cao. Tâm lý động vật
chưa phải là ý thức, nó mới là sự phản ánh có tính chất bản năng do nhu cầu
trực tiếp của sinh lý cơ thể và do quy luật sinh học chi phối.
Ý thức là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thức. Ý thức
chỉ nảy sinh ở giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất cùng với sự xuất
hiện con người. Ý thức là ý thức con người, nằm trong con người, không thể
tách rời con người. Ý thức bứt nguồn từ một thuộc tính của vật chất - thuộc tính
phản ánh - phát triển thành. Ý thức ra đời là kết quả phát triển lâu dài của thuộc
tính phản ánh của vật chất. Nội dung của ý thức là thơng tin về thế giới bên
ngồi, về vật được phản ánh. Ý thức là sự phản ánh thế giới bên ngồi và đầu óc
con người. Bộ óc người là cơ quan phản ánh, song chỉ có riêng bộ óc thơi thì
chưa thể có ý thức. Khơng có sự tác động của thế giới bên ngoài lên các giác
quan và qua đó đến bộ óc thì hoạt động ý thức khơng thể xảy ra.
Như vậy, bộ óc người [cơ quan phản ánh về thế giới vật chất xung quanh]
cùng với thế giới bên ngồi tác động lên bộ óc - đó là nguồn gốc tự nhiên của ý

thức.
Những điều đã trình bày về nguồn gốc tự nhiên của ý thức cho thấy “sự
đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ có nghĩa tuyệt đối trong những phạm vi hết
sức hạn chế: trong trường hợp này, chỉ giới hạn trong vấn đề nhận thức luận cơ
bản là thừa nhận cái gì là cái có trước và cái gì là cái có sau? Ngồi giới hạn đó
ra, sự đối lập đó là tương đối(1). Ý thức chính là đạc tính của một dạng vật chất
sống có tổ chức cao mà thơi.
 Nguồn gốc xã hội

(1)

V.I.Lênin: Tồn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva, 1980, t.18, tr.173
9


Để cho ý thức ra đời, những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên là rất quan trọng,
không thể thiếu được, song chưa đủ; điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý
thức là những tiền đề, nguồn gốc xã hội. Ý thức ra đời cùng với quá trình hình
thành bộ óc con người nhờ lao động, ngơn ngữ và những quan hệ xã hội.
Lao động theo C.Mác, là một quá trình diễn biến giữa người và tự nhiên,
một quá trình trong đó bản thân con người đóng góp vai trị mơi giới, điều tiết
và giám sát trong sự trao đổi vật chất giữa người và tự nhiên. Lao động là điều
kiện đầu tiên và chủ yếu để con người tồn tại. Lao động cung cấp cho con người
những phương tiện cần thiết để sống, đồng thời lao động sáng tạo ra cả bản thân
con người. Nhờ có lao động, con người tác ra khỏi giới động vật. Một trong
những sự khác nhau căn bản giữa con người với động vật là ở chỗ động vật sử
dụng các sản phẩm có sẵn trong giới tự nhiên, cịn con người thì nhờ lao động
mà bắt giới tự nhiên phục vụ mục đích của mình, thay đổi nó, bắt nó phục tùng
những nhu cầu của mình. Chính thơng qua hoạt động lao động nhằm cải tạo thế
giới khách quan mà con người mới có thể phản ánh được thế giới khách quan,

mới có ý thức về thế giới đó.
Sự hình thành ý thức khơng phải là q trình thu nhận thụ động, mà đó là
kết quả hoạt động chủ động của con người. Nhờ có lao động, con người tác
động và thế giới khách quan, bắt thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính,
những kết cấu, những quy luật vận động của mình thành những hiện tượng nhất
định, và các hiện tượng ấy tác động vào bộ óc người, hình thành dần những tri
thức về tự nhiên và xã hội. Nếu khơng có lao động thì hồn cảnh vẫn bí ẩn, vẫn
xa lạ đối với con người, con người khơng có cách nào khác ngồi lao động đẻ
óc thể phản ánh đúng đắn thế giới khách quan. Như vậy, ý thức được hình thành
chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới khách quan của con người, làm biến đổi
thế giới đó. Ý thức với tư cách là hoạt động phản ánh sáng tạo khơng thể có
được ở bên ngồi q trình con người lao động làm biến đổi thế giới xung
quanh. Vì thế có thể nói khái qt rằng lao động tạo ra ý thức tư tưởng, hoặc

10


nguồn gốc cơ bản của ý thức tư tưởng là sự phản ánh thế giới khách quan và
đầu óc con người trong quá trình lao động của con người.
Lao động không xuất hiện ở trạng thái đơn nhất, ngay từ đầu nó đã mang
tính tập thể xã hội. Vì vậy, nhu cầu trao đổi kinh nghiệm và nhu cầu trao đổi tư
tưởng cho nhau xuất hiện. Chính nhu cầu đó địi hỏi phải xuất hiện ngơn ngữ.
Ngơn ngữ do nhu cầu của lao động và nhờ lao động mà hình thành. Ngơn
ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Khơng có ngơn ngữ thì
ý thức không thể tồn tại và thể hiện được.
Ngôn ngữ cũng cổ xưa như ý thức. Ngôn ngữ vừa là phương tiện giao
tiếp trong xã hội, đồng thời là công cụ của tư duy nhằm khái quát hóa, trừu
tượng hóa hiện thực. Nhờ ngôn ngữ mà con người tổng kết được thực tiễn, trao
đổi thông tin, trao đổi tri thức từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ý thức không phải
thuần túy là hiện tượng cá nhân mà là một hiện tượng xã hội, do đó khơng có

phương tiện trao đổi xã hội về mặt ngơn ngữ thì ý thức khơng thể hình thành và
phát triển được.
Vậy, nguồn gốc trực tiếp quan trọng nấht quyết định sự ra đời và phát
triển của ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội. Ý thức phản ánh hiện thức
khách quan vào bộ óc con người thơng qua lao động, ngơn ngữ và các quan hệ
xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội.
2. Vai trò của tri thức khoa học công nghệ đối với việc phát triển
kinh tế ở Việt Nam hiện nay
a. Quan niệm về KH - CN
 Quan niệm về khoa học
Trong lịch sử phát triển tư duy của nhân loại có rất nhiều các quan niệm
khác nhau về khoa học, một mặt nó phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội;
mặt khác phụ thuộc vào trình độ nhận thức. Xét về phương diện xã hội, khoa
học là một hiện tượng xã hội có nhiều mặt, trong đó biểu hiện sự thống nhất
giữa những yếu tố vật chất và những yếu tố tinh thần. Về phương diện triết học,
khoa học là một hình thái ý thức xã hội đặc biêt. Đặc biệt, bởi vì khoa học
11


không chỉ phản ánh tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội, những chân lý
của nó được thực tiễn xã hội kiểm nghiệm mà khoa học còn là kết quả của quá
trình sáng tạo logic, của trực giác thiên tài. Cịn bởi vì, khoa học (cùng với cơng
nghệ) là những yếu tố ngày càng có vai trị đặc biệt quan trọng của lực lượng
sản xuất, quyết định trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nói riêng, của
phương thức sản xuất và của xã hội nói chung. Về phương diện nhận thức luận,
khoa học là giai đoạn cao của nhận thức - giai đoạn nhận thức lý luận.
Ngày nay, quan niệm về khoa học được phổ biến với những đặc trưng cơ
bản sau dây:
- Khoa học là một hệ thống tri thức về tự nhiên, về xã hội, về con người
và về tư duy của con người. Nó nghiên cứu và vạch ra những mối quan hệ nội

tại, bản chất của các sự vật, hiện tượng, q trình, từ đó chỉ ra những quy luật
khách quan của sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.
- Hệ thống tri thức khoa học được hình thành trong quá trình nhận thức
của con người từ trực quan sinh động, đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu
tượng đến thực tiễn, dưới dạng khái niệm, phạm trù, quy luật, lý thuyết,... Như
vậy, tri thức khoa học không chỉ là sự phản ánh thế giới hiện thực, mà còn được
kiểm nghiệm qua thực tiễn.
- Hệ thống tri thức khoa học cịn có thể được hình thành nhờ trực giác
hoặc tuân theo những quy luật của logic học. Loại tri thức khoa học này, xét cho
đến cùng cũng là sự phản ánh thế giới hiện thực và được thực tiễn kiểm nghiệm.
Do đó, một hệ thống tri thức được coi là tri thức khoa học phải bảo đảm tính
đúng đắn, tính chân thực.
- Nhờ giáo dục, đào tạo, hệ thống tri thức khoa học có sức sống mãnh liệt,
được phổ biến rộng rãi và lan truyền rất nhanh chóng. Tốc độ lan truyền đó đã
tăng lên rất nhiều lần nhờ vào q trình tồn cầu hóa và cơng nghệ thơng tin. Nó
khơng chỉ là sức mạnh, là sự biến đổi mau lẹ, mà còn là biểu hiện sự giàu có,
thịnh vượng của mọi quốc gia, dân tộc và cá nhân.

12


- Hệ thống tri thức khoa học là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài,
liên tục của tư duy nhân loại từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ngày nay nó đang
trở thành tài sản chung của xã hội loài người.
Như vậy, qua một số những đặc trưng cơ bản trên đây về quan niệm khoa
học, ta thấy nổi lên cái cốt lõi của khoa học - đó là hệ thống tri thức chân thực
về tự nhiên, xã hội và tư duy. Khoa học là hệ thống tri thức chân thực, nhưng có
phải mọi tri thức chân thực đều là khoa học hay không? Để hiểu rõ điều này,
chúng ta phải đi tìm hiểu nguồn gốc, bản chất của tri thức, con đường từ tri thức
đến khoa học.

 Quan niệm về công nghệ
Công nghệ theo nghĩa chung nhất có thể coi đó là tập hợp tất cả những sự
hiểu biết của con người vào việc biến đổi, cải tạo thế giới nhằm đáp ứng nhu
cầu sống của con người, sự tồn tại và phát triển của xã hội. Công nghệ trong sản
xuất là một tập hợp các phowng tiện vật chất, các phương pháp, các quy tắc, các
kỹ năng được con người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động nhằm tạo
ra một sản phẩm nào đó cần thiết cho xã hội.
Có ba nghĩa chủ yếu về công nghệ được sử dụng phổ biến nhất hiện nay:
Một là, công nghệ được coi như một bộ môn khoa học ứng dụng, triển
khai (trong tương quan với khoa học cơ bản), trong việc vận dụng các quy luật
tự nhiên và các nguyên lý khoa học nhằm đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh
thần ngày càng cao của con người.
Hai là, công nghệ được hiểu với tư cách như là các phương tiện vật chất kỹ thuật, hay đó là sự thể hiện cụ thể của tri thức khoa học đã được vật thể hóa
thành các công cụ, các phương tiện kỹ thuật cần cho sản xuất và đời sống.
Ba là, công nghệ bao gồm các cách thức, các phương pháp, các thủ thuật,
các kỹ năng có được nhờ dựa trên cơ sở tri thức khoa học và được sử dụng vào
sản xuất trong các ngành khác nhau để tạo ra các sản phẩm.
Ngày nay, trong thời địa của cuộc cách mạng khoa học công nghệ mới,
hay cách mạng thông tin công nghệ lần thứ năm, khi mà khoa học đang trở
13


thành lực lượng sản xuất trực tiếp, trí tuệ con người đang giữ vai trò động lực
trực tiế và quyết định sự phát triển của cơng nghệ nói riêng, và xã hội nói chung
thì quan niệm về cơng nghệ, các thành phần cấu trúc của nó lại một lần nữa có
sự mở rộng và phát triển rất cơ bản.
b. Vai trò của tri thức KH - CN trong việc phát triển kinh tế ở Việt Nam
hiện nay
Cơng nghiệp hóa là con đường phát triển tất yếu của tất cả các nước trên
thế giới. Bởi vì, mục đích quan trọng nhất của cơng nghiệp hóa là phát triển sản

xuất xã hội, trước hết là phát triển lực lượng sản xuất, nhằm thỏa mãn các nhu
cầu ngày càng tăng của con người và thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Ngày nay, cơng nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa. Sự gắn kết
chặt chẽ giữa cơng nghiệp hóa với hiện đại hóa hiện nay là sự đổi mới về chất,
là nhu cầu mới của sự phát triển xã hội và cũng là quy định mới của thời đại.
Điều này, trước tiên, được quyết định bởi sự phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng
của khoa học và cơng nghệ và vai trị ngày càng tăng của chúng đối với nền sản
xuất xã hội nói riêng, đối với tồn bộ đời sống xã hội nói chung. Trong những
giai đoạn phát triển trước đây của xã hội lồi người, sản xuất cịn tách rời khoa
học và công nghệ và thường là vượt trước sự phát triển của khoa học và cơng
nghệ. Mói quan hệ giữa khoa học và công nghệ với sản xuất lúc ấy tuân theo
quy luật: sản xuất đi trước công nghệ và cơng nghệ lại đi trước khoa học.
Nói cách khác, sản xuất chưa thật sự gắn kết với khoa học và cơng nghệ,
chưa được hiện đại hóa. Ngày nay trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ hiện đại, trong lĩnh vực này đang hình thành một quy luật mới:
Những phát minh khoa học trở thành nền tảng cho những sáng chế cơng nghệ
và đến lượt mình, công nghệ này được trực tiếp đưa vào sản xuất.
Điều đó chỉ có thể có được khi khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp, nghĩa là những tri thức khoa học nhanh chóng được vật thể hóa thành công
cụ, phương tiện sản xuất, thành hệ thống công nghệ trực tiếp tham gia vào quá
trình sản xuất xã hội. Nhờ đó, ngày nay, sản xuất xã hội đã gắn liền với những
14


phát minh, sáng chế trong khoa học và công nghệ; nó ln được đổi mới và hiện
đại hóa cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ. Hiện đại hóa nền sản
xuất xã hội là nền tảng để thực hiện sự hiện đại hóa tồn bộ đời sống xã hội.
Hiện đại hóa nền sản xuất trước hết là hiện đại hóa trong lực lượng sản
xuất để đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất nhằm nâng cao năng suất
lao động, từ đó làm chuyển biến mạnh mẽ cơ cấu của nền kinh tế, tạo điều kiện

thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội của một đất nước.
Khoa học và công nghệ là yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất. Tuy
nhiên, nếu như trong những giai đoạn phát triển trước đây, khoa học và công
nghệ là những yếu tố gián tiếp của lực lượng sản xuất, đứng ngồi q trình sản
xuất trực tiếp theo nghĩa là từ khoa học, công nghệ đến sản xuất phải trải qua
một thời gian biến đổi lâu dài, tới hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm thì
ngày nay, nhìn chung, khoa học và cơng nghệ đã và đang trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp. Trong một số nước công nghiệp phát triển, tri thức của những
phát minh mới nhất ở một số lĩnh vực khoa học như tin học, điều khiển học,
sinh vật học v.v... đã nhanh chóng được đưa vào cơng nghệ thơng tin, công nghệ
sinh học, công nghệ vật liệu mới... và từ đó, trực tiếp đi vào sản xuất và dịch vụ
của xã hội. Bằng cách này, lực lượng sản xuất xã hội không ngừng được bổ
sung và đổi mới theo hướng gia tăng tính hiện đại, tiên tiến.
Ngày nay xu hướng vận động chung của lực lượng sản xuất hiện đại là
không ngừng thay thế dần các trang thiết bị kỹ thuật, các quy trình, hệ thống
cơng nghệ chưa hồn thiện (cho năng suấtt thấp, tiêu hoa nhiều nguyên, nhiên
vật liệu, thải bỏ nhiều các chấy gây ô nhiễm môi trường v.v...) bằng những thiết
bị, những hệ thống công nghệ cao, công nghệ làm sạch, mang nhiều hàm lượng
tri thức. Điều này chỉ có thể thực hiện được bằng con đường phát triển khoa học
và công nghệ. Như vậy, khoa học và công nghệ đã thúc đẩy sự phát triển của
lực lượng sản xuất theo hướng hiện đại, và đó là tiền đề, là cơ sở của hiện đại
hóa nền sản xuất xã hội, vì lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định trong một
phương thức sản xuất.
15


Con người với tri thức nghề nghiệp, kỹ năng, kỹ xảo và kinh nghiệm sản
xuất là một yếu tố cực kỳ quan trọng của lực lượng sản xuất. Khoa học và cơng
nghệ cũng có vai trị to lớn, quyết định trong việc biến đổi yếu tố con người
trong lực lượng sản xuất theo chiều hướng hiện đại. Khoa học và cơng nghệ đã

đến với con người thơng qua q trình giáo dục, đào tạo và hoạt động thực tiễn,
đã trang bị cho con người những tri thức lý luận và kinh nghiệm cần thiết để họ
có thể nhanh chóng vận hành tốt và thích nghi với các trang thiết bị kỹ thuật
hiện đại, tiên tiến trong sản xuất, cũng như có đủ năng lực giải quyết những tình
huống phức tạp, có vấn đề trong sản xuất và đời sống. Mặt khác, sự thường
xuyên đổi mới theo hướng hiện đại dần của các trang thiết bị kỹ thuật, công
nghệ trong sản xuất và đời sống đã buộc con người - với tư cách là yếu tố của
lực lượn sản xuất - phải luôn nỗ lực học tập, thường xuyên trau dồi kiến thức,
nghiệp vụ, chuyên môn để khỏi bị đào thải ra khỏi q trình sản xuất xã hội, để
có thể nhanh chóng thích ứng với cuộc sống hiện đại. Chính nhờ vậy mà trình
độ và chất lượng của đội ngũ những người lao động không ngừng được nâng
cao và được hiện đại hóa theo đà phát triển của khoa học và cơng nghệ.
Ngồi ra, nếu theo cách hiểu mới về cơng nghệ thì sự phát triển của khoa
học và cơng nghệ ngày nay còn liên quan rất chặt chẽ, thậm chí cịn có vai trị
rất to lớn đối với quan hệ sản xuất. Công nghệ, theo cách hiểu mới, bao gồm 4
yếu tố: trang thiết bị, máy móc kỹ thuật... (là phần cứng của công nghệ); con
người; thông tin; tổ chức và quản lý (ba yếu tố này là phần mềm của công
nghệ). Như đã biết, trang thiết bị, máy móc kỹ thuật... và con người là thuộc về
lực lượng sản xuất. Hai yếu tố thông tin, tổ chức quản lý, theo nghĩa chung, vừa
là những yếu tố của lực lượng sản xuất, vừa là những yếu tố của quan hệ sản
xuất. Thậm chí, bản thân con người, xét theo các mối quan hệ của nó trong q
trình sản xuất và tiêu dùng, là yếu tố chủ thể của quan hệ sản xuất. Do vậy, sự
phát triển của khoa học và cơng nghệ khơng chỉ có tác động mạnh mẽ đến sự
phát triển của lực lượng sản xuất, mà còn có ảnh hưởng sâu sắc đến quan hệ sản
xuất theo chiều hướng hiện đại.
16


3. Tương tự như nhiều nước khác, q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở nước ta cũng có mục đích và nhiệm vụ trước tiên là phải phát triển sản

xuất. Tuy nhiên, từ một nước nơng nghiệp cịn nghèo nàn, lạc hậu, để có thể đi
vào nền sản xuất hiện đại, chúng ta cần phải tiến hành một quá trình chuyển đổi
căn bản và tồn diện tất cả các hoạt động xã hội, trước tiên là hoạt động sản
xuất - từ chủ yếu là lao động thủ công, sang chủ yếu là lao động có kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất lao động xã hội. Điều này đã được khẳng định tại Hội
nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa VII, khi Đảng ta chủ trương
gắn q trình cơng nghiệp hóa với hiện đại hóa “Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
là q trình chuyển đổi căn bản, tàon diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ cơng là chính sang
sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và
phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến
bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”(1).
Vai trò nền tảng, động lực và then chốt của khoa học và cơng nghệ đối
với q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng, đối với sự phát triển xã
hội Việt Nam nói chung, được biểu hiện trên những mặt cụ thể sau đây:
Một là, khoa học và cơng nghệ có vai trị quyết định trong việc trang bị
và trang bị lại các máy móc, trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ hiện đại, tiên tiến
cho nền sản xuất xã hội nói riêng, cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân nói
chung, nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, tăng cường sức
cạnh tranh của các sản phẩm hàng hóa Việt Nam trên thị trường thế giới, v.v...
với mục tiêu không ngừng cải thiện và nâng cao mức sóng của người dân, sự
phồn vinh và sức mạnh của xã hội Việt Nam. Đó là nhiệm vụ đầu tiên, quan
trọng nhất của sự nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
hiện nay. Trên thực tế, nước ta đã tiến hành cơng nghiệp hóa từ đầu những năm
60 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan,
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành TW khóa VII.
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.42
(1)

17



đặc biệt là chưa gắn kết được cơng nghiệp hóa với hiện đại hóa, mà cho đến
nay, lực lượng sản xuất của nước ta chủ yếu vẫn ở trong tình trạng lạc hậu, các
trang thiết bị, máy móc phần lớn là thủ cơng, thủ cơng bán cơ giới. Nhìn chung,
trình độ phát triển công nghệ nước ta, về cơ bản, chỉ mới đạt ở giai đoạn 1 và 2
trong 7 giai đoạn phát triển công nghệ mà các nước công nghiệp phát triển đã
trải qua - đó là nhập cơng nghệ để thỏa mãn nhu cầu tối thiểu (nhập toàn bộ
hoặc nhập phụ tùng các trang thiết bị và cả dây chuyền lắp ráp), và mới chỉ có
tổ chức hạ tầng kinh tế ở mức tối thiểu để tiếp thu công nghệ nhập. Do vậy, cả
năng suất lao động và chất lượng các sản phẩm do nền sản xuất xã hội tạo ra
vẫn còn rất thấp so với mặt bằng chung của thế giới, không đủ sức cạnh tranh
trên thị trường khu vực và toàn cầu.
Việc trang bị và trang bị lại công nghệ từ lạc hậu sang hiện đại, tiên tiến,
cịn nhằm một mục đích và nhiệm vụ quan trọng nữa là làm thay đổi cơ cấu
chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân từ nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ
sang công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Bước chuyển dịch cơ cấu này sẽ tạo
tiền đề và nền tảng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, để đến
năm 2020, đưa nước ta cơ bản trở thành một ưnứoc công nghiệp theo hướng
hiện đại. Để đạt được mục tiêu chiến lược này, nhất thiết chúng ta phải tiếp cận
được nền khoa học và công nghệ hiện đại, tiên tiến của thế giới, đặc biệt là các
ngành công nghệ mũi nhọn: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công
nghệ vật liệu mới và công nghệ năng lượng mới... Văn kiện Đại hội IX của
Đảng đã chỉ rõ: “Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng
để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là ôcng nghệ thông tin và công nghệ
sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến
hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh
tế tri thức”(1).

Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà nội, 2001, tr.91


(1)

18


Hai là, khoa học và cơng nghệ đóng vai trị vô cùng quan trọng trong
việc giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, khai thác và phát huy nguồn lực con người,
đặc biệt là nguồn lực trí tuệ - một nguồn lực to lớn, có tính chất quyết định đối
với sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Có nhiều cách thức để
chúng ta thực hiện việc trang bị và trang bị lại công nghệ hiện đại, tiên tiến cho
các ngành kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, dù bằng cách thức nào đi chăng nữa,
điều quan trọng và có tính chất quyết định nhất ở đây là cần phải có những con
người có đủ tri thức và năng lực để có thể khai thác, sử dụng một cách hiệu quả
các trang thiết bị hiện đại. Điều này chỉ có khoa học và công nghệ tiên tiến mới
làm được.
Con người là chủ thể sáng tạo ra khoa học và công nghệ. Đến lượt mình,
khoa học và cơng nghệ trở thành phương tiện, công cụ và đồng thời là cơ sở để
con người vươn lên tự toàn thiện về mọi mặt, đặc biệt là về năng lực trí tuệ.
Trước hết, thơng qua quá trình giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ sẽ
trang bị cho con người những tri thức khoa học và công nghệ cần thiết để một
mặt, giúp họ có thể am hiểu, sử dụng và khai thác một cách tích cực, có hiệu
quả những trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, và mặt khác, có thể sáng tạo ra công
nghệ mới.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, tuy đã qua hơn 40 năm cơng nghiệp
hóa, nhưng nhìn chung, nền sản xuất, đặc biệt là lực lượng sản xuất vẫn còn rất
lạc hậu. Với gần 80% dân số là nông dân, 70% lao động là lao động nông
nghiệp, với cơ cấu nền kinh tế quốc dân đang hiện hành “nông nghiệp - công
nghiệp - dịch vụ”, với một truyền thống xã hội ít “trọng nơng”, “trọng thương”,
v.v. đã và đang là những rào cản rất lớn đối với con người Việt Nam trong việc

tiếp cận với khoa học và công nghệ tiên tiến của thời đại. Hơn nữa, tư duy kinh
nghiệm - một lối tư duy truyền thống phổ biến - đã ăn sâu vào xã hội Việt Nam
từ bao đời nay. Khơng ai phủ nhận vai trị của tư duy kinh nghiệm trong đời
sống. Tuy nhiên, trên bình diện phát triển khoa học và cơng nghệ hiện nay thì tư
duy kinh nghiệm là khơng thể đủ, mà nhất thiết phải trang bị tư duy lý luận, tư
19


duy khoa học - công nghệ. Ph. Ăngghen đã từng viết: “Một dân tốc muốn đứng
vững trên đỉnh cao của khoa học thì khơng thể khơng có tư duy lý luận”(1). Sự
hạn chế về mặt tư duy lý luận là một điểm yếu trong truyền thống dân tộc, mà
ngày nay, chúng ta phải phấn đấu vượt qua mới có thể tiếp thu và sáng tạo ra
những tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, phù hợp với xu thế phát triển
của thời đại.
Kho tri thức khoa học và công nghệ là vơ tận và ln đổi mới. Do đó, để
có thể nắm bắt kịp thời những thành tựu của khoa học và cơng nghệ hiện đại,
địi hỏi đội ngũ những người nghiên cứu, triển khai và ứng dụng khoa học công
nghệ không những phải được đào tạo một cách cơ bản và có hệ thống, mà cịn
phải thường xun được đào tạo bổ sung và đào tạo chuyên sâu.
Con đường bền vững nhất để tiếp thu và phát triển khoa học và công nghệ
là phải dựa vào tiềm năng và năng lực của chính mình, nghĩa là phải tập trung
vào khai thác nội lực, đặc biệt là nguồn lực trí tuệ - nguồn nhân lực khoa học và
cơng nghệ. Văn kiện Đại hội IX của Đảng đã chỉ rõ: “Phát huy nguồn lực trí tuệ
và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam; coi phát triển giáo dục và đào tạo,
khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sjư nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa”(2).
Ba là, khoa học và cơng nghệ giữ vai trị động lực trong việc tạo ra môi
trường thông tin và thị trường thơng tin - huyết mạch của cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa và của cả nền kinh tế. So với giai đoạn phát triển trước đây, thì ngày
nay, thơng tin có một vị trí cực kỳ quan trọng, mang tính quyết định đối với

hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ và cả những hoạt động tinh thầnh. Có
trang thiết bị, máy móc hiện đại, có những con người đã được đào tạo tay nghề
và có kỹ năng, kỹ xảo cao, nhưng nếu thiếu thơng tin thì sẽ dẫn đến chỗ không
biết đâu tư chúng vào đâu cho đúng để kịp thời sinh lợi nhanh, và vì vậy, rất dễ
sa vào chỗ mất phương hướng phát triển. Bởi vì, thơng tin trong lĩnh vực khoa

(1)

C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội, 1994, tr.489
20


học và cơng nghệ có liên quan rất chặt chẽ đến việc nắm bắt các bí quyết, bí mật
cơng nghệ nằm trong các phương pháp, thiết bị, các dữ liệu khoa học và công
nghệ mới nhất. Thông tin như một người hướng dẫn nắm trong tay chiếc chìa
khóa vàng kỳ diệu, giúp cho người ta có thể mở ra những cánh cửa làm ăn đúng
lúc và đúng cách, tìm kiếm những cơ hội, những lĩnh vứ làm ăn còn tiềm năng
và triển vọng, đồng thời biết khép cửa lại, rút lui đúng lúc khi tiềm năng trong
lĩnh vực đó đã cạn kiệt v.v...
Cơng nghệ thơng tin đã chính thức đi vào nước ta khoảng hơn chục năm
nay và hệ thống thông tin khoa học - công nghệ quốc gia trải qua hơn 30 năm
hoạt động đã có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển khoa học và công
nghệ nói riêng, vào sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nói chung. Tuy
nhiên, đối với nước ta, đây là một lĩnh vực hồn tồn mới mẻ, cịn rất nhiều vấn
đề phức tạp, nan giải và bất cập. Đặc điểm nổi bật của sự phát triển công nghệ
thông tin trong thời gian qua ở nước ta là chưa gắn kết được các giải pháp công
nghệ (việc trang bị các máy móc kỹ thuật cơng nghệ thơng tin) với các giải pháp
về tổ chức quản lý, chuẩn hóa thơng tin và với công tác đào tạo, huấn luyện
chuyên viên kỹ thuật, những người sử dụng, quản lý thơng tin. Vì vậy mà trong
nhiều trường hợp, hệ thống công nghệ thông tin hiện đại đã được thiết lập đầy

đủ, nhưng không vận hành được do thiếu thông tin, thiếu nhân viên kỹ thuật.
Cho đến năm 2000, nguồn nhân lực thông tin khoa học - cơng nghệ nước ta vẫn
cịn q mỏng và yếu kém, chưa đủ sức đáp ứng so với nhu cầu thực tế. Số
người làm công tác thông tin khoa học - cơng nghệ chun nghiệp mới chỉ có
3000 người, trong đó, số người có trình độ đại học chiếm 66,3%, trên đại học
chiếm 6,45%(3).
Bốn là, khoa học và công nghệ có vai trị quan trọng trong việc hồn
thiện cơ chế tổ chức, quản lý sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và xã hội. Nhiệm vụ
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà nội, 2001, tr.91
(3)
Xem: Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường. Khoa học và công nghệ Việt Nam 19962000. Hà nội, 2001, tr.78-79
(2)

21


quan trọng của công tác tổ chức, quản lý là liên kết các yếu tố trang thiết bị,
máy móc kỹ thuật, con người và thông tin lại với nhau thành một tổ hợp vận
hành hợp lý, đồng điều nhằm đạt đến một mục tiêu nhất định, mà ở đây là mục
tiêu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mục tiêu chung của cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở nước ta là không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân,
thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để thực
hiện mục tiêu này, phải tiến hành đồng thời nhiều hoạt động xã hội với những
chức năng rất khác nhau, như sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, giáo dục, đào tạo,
chăm sóc y tế, v.v... Sự phối hợp điều hành các hoạt động đó, sự xếp đặt các
mối quan hệ giữa chúng, cũng như sự phân bổ hợp lý các chức năng của chúng
sao cho đều hướng về các mục tiêu mà công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đề ra,
chính là nhiệm vụ của công tác tổ chức, quản lý trong công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Bởi vậy, cơng tác tổ chức, quản lý có một vai trị cực kỳ quan trọng trong

q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Những cơng việc vừa rộng lớn, phức tạp, vừa tỉ mỉ, chi tiết của công tác
tổ chức quản lý ngày nay đang được thực hiện một cách nhanh chóng hơn,
chính xác hơn và hiệu quả hơn nhờ có sự phát triển của khoa học và công nghệ,
đặc biệt là công nghệ thông tin. Nhờ có sự trợ giúp của cơng nghệ thơng tin,
thơng qua hệ thống máy vi tính, mạng Internet, ngườ ta có thể tiến hành cơng
tác tổ chức và quản lý một cách sâu sắc, toàn diện ở tầm vi mô, cũng như vĩ mô.
Năm là, khoa học và công nghệ đóng góp phần quan trọng vào chiến
lược phát triển lâu bền của xã hội. Qua những điều đã trình bày trên đây, hồn
tồn có thể khẳng định được vai trò cơ sở và động lực của khoa học và cơng
nghệ đối với sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa với bất cứ giá nào. Ngày
nay, phát triển lâu bền đang là mối quan tâm sâu sắc của toàn nhân loại.
Có thể có nhiều cách hiểu khác nhau về phát triển lâu bền, nhưng cách
hiểu chung nhất là, làm sao cho sự phát triển, trước hết là sự phát triển về kinh
tế, của các thế hệ hôm nay không cản trợ cơ hội phát triển ủca các thế hệ mai
sau. Phát triển lâu bền là “sự cải thiện chất lượng cuộc sống của con người đi
22


đôi với nhiệm vụ bảo vệ các hệ sinh thái”(1), nghĩa là phải hớng đến ba mục tiêu
cơ bản: 1. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh và an toàn; 2. Mục tiêu xã hội nhân văn; 3. Mục tiêu bảo vệ và không ngừng cải thiện chất lượng môi trường
sống, hay mục tiêu sinh thái. Do vậy, để có thể phát triển xã hội một cách lâu
bền, phải kết hợp một cách hài hòa, đầy đủ 4 yếu tố cơ bản: yếu tố kinh tế, yếu
tố con người (dân số), yếu tố mơi trường, ính thái và yếu tố công nghệ.
Nhiệm vụ trọng tâm của khoa học và công nghệ là cung cấp những trang
thiết bị kỹ thuật hiện đại thông qua các công nghệ cao, công nghệ sách để con
người khắc phục được những hậu quả tiêu cjư cdo chính những phương tiện kỹ
thuật chưa hồn thiện trước đây gây ra (xử lý các chất thải độc hại, phục hồi các
hệ sinh thái tự nhiên...); xây dựng những quy trình cơng nghệ mới khơng có
chất thải, những khu sản xuất liên hợp mà những chất thải cuối cùng của chúng

có thể được các sinh vật khác sử dụng để đưa vào chu trình sản học, v.v.
Là động lực và là cơ sở của q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nói
riêng, của sự phát triển xã hội nói chung, khoa học và cơng nghệ đang đóng gó
phần quyết định trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển lâu bền, đặc biệt là
mục tiêu xã hội - nhân văn.

Xem: Những nhân tố của sự phát triển bền vững. Thông tin chiến lược phát triển khoa học,
kỹ thuật, kinh tế, số 8, 1996
(1)

23


III. KẾT LUẬN
Việt Nam xuất phát điểm là một nước nghèo và kém phát triển, việc xây
dựng và phát triển tri thức KHCN là phù hợp với bối cảnh nước ta đang thực
hiện mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-2010,
các quan điểm về phát triển kinh tế tri thức nêu trên chính là cơ sở để định
hướng, để có những giải pháp cụ thể cho xây dựng và phát triển kinh tế tri thức.
Đồng thời, các quan điểm đó hướng tới mục tiêu góp phần giải quyết ba thách
thức lớn trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước: phải phát triển
nhanh và bền vững; xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và tiến bộ; quản lý
có hiệu quả trong điều kiện nền kinh tế mở và nhanh chóng rút ngắn khoảng
cách phát triển so với khu vực và thế giới.
Sau đây là một số giải pháp:
 Nâng cao vai trò tổ chức và quản lý của Nhà nước
Nhà nước là tổ chức chính trị của xã hội, Nhà nước có một vai trị vơ
cùng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế. Nhiệm vụ trọng tâm của phát triển
kinh tế nước ta hiện nay là cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. “Cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước phải bằng và dựa vào khoa học và cơng nghệ”. Do đó,

Nhà nước ta có trách nhiệm lớn lao đối với sự phát triển ủca khoa học và công
nghệ.
Trong điều kiện cụ thể ở nớc ta, vai trò của Nhà nước đặc biệt quan trọng
trong việc quản lý, điều hành q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa - một hoạt
động kinh tế trọng tâm của đất nước. Đối với sự phát triển của khoa học và cơng
nghệ, các quy định trong các chính sách và cơ chế quản lý kinh tế do Nhà nước
ban hành trong thời gian qua đã có tác dụng kích thích đổi mới và nâng cao
trình độ cơng nghệ của sản xuất. Thể hiện:
- Tạo quyền chủ đọng cho các chủ thể sử dụng như các công ty, các
doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất.
- Tạo ra nhu cầu bức xúc và cần thiết cho việc đổi mới và nâng cao trình
độ cơng nghệ.
24


- Mở ra những hình thức mới trong việc tiếp cận và thu hút công nghệ
tiên tiến của thế giới.
 Nâng cao trình độ dân trí, xã hội hóa tri thức khoa học và công nghệ,
đào tạo nguồn nhân lực khoa học và cơng nghệ.
Khoa học và cơng nghệ có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Do vậy đưa khoa học và công nghệ, trước hết là
phổ cập những tri thức khoa học và công nghệ cần thiết và sản xuất và đời sống
xã hội là một nhu cầu cấp thiết của xã hội ta hiện nay. Bởi lẽ, cho dù chúng ta
có tiến hành cuộc cách mạng khoa học và cơng nghệ, có đưa các trang thiết bị
kỹ thuật tiên tiến nhất, những quy trình cơng nghệ hiện đại nhất vào nước ta thì
ucngx khơng có gì để có thể bảo đảm đẩy mạnh được cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, nếu như trong thực tế chúng ta chưa có được đầy đủ những con người am
hiểu và sử dụng chúng.
Hiện nay, xã hội hóa tri thức khoa học và cơng nghệ cần phải tập trung
giải quyết một số vấn đề trọng điểm sau: 1. Tạo mặt bằng dân trí cần thiết để có

thể tiến hành xã hội hóa tri thức khoa học và công nghệ; 2. Cần biết chọn lựa và
ưu tiên xã hội hóa những tri thức khoa học và công nghệ thuộc những ngành
nghề, những lĩnh vực đang giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân; 3. Xã
hội hóa tri thức khoa học và cơng nghệ trong đó có sự kết hợp giữa cơng nghệ
tiên tiến ngoại nhập với công nghệ truyền thống, trên cơ sở phát huy tối đa năng
lực nội sinh về kho ahọc và công nghệ của đất nước; 4. Tạo lập và mở rộng địa
bàn và thị trường để xã hội hóa nhanh và rộng rãi tri thức khoa học và công
nghệ.
 Tạo lập môi trường hợp tác quốc tế thuận lợi cho sjư phát triển khoa
học và công nghệ
Là một nước nơng nghiệp cịn lạc hậu, khoa học và cơng nghệ cịn ở trình
độ thấp, nguồn vốn tài chính ít iỏi, các nguồn lực khác, đặc biệt là nguồn lực
con người, tuy ta có tương đối dồi dào, nhưng phần lớn cịn ở dạng tiềm năng,
để có thể tiếp thu, nghiên cứu và phát triển khoa học công nghệ cho sự nghiệp
25


×