Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

PHÂN TÍCH các QUY LUẬT HOẠT ĐỘNG và PHÁT TRIỂN của văn HOÁ từ đó LIÊN hệ với THỰC tế VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.5 KB, 32 trang )

TIỂU LUẬN

ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH CÁC QUY LUẬT HOẠT ĐỘNG
VÀ PHÁT TRIỂN CỦA VĂN HỐ. TỪ ĐĨ LIÊN HỆ
VỚI THỰC TẾ VIỆT NAM.

Hà Nội – 2021


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU....................................................................................................
03
1. Lý do chọn đề tài.................................................................................................
03
2. Mục đích nghiên cứu...........................................................................................
03
3. Đối tượng nghiên cứu..........................................................................................
04
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu..........................................................
04
4.1.

sở

luận
.............................................................................................................................
04
4.2.
Phương
pháp
nghiên


cứu
.............................................................................................................................
04
5. Kết cấu để tài.......................................................................................................
04
PHẦN NỘI DUNG................................................................................................
05
Chương 1: Các quy luật hoạt động và phát triển của văn hố..........................
05
1.1. Khái niệm văn hố............................................................................................
05
1.1.1.
Các
loại
hình
văn
hố
.............................................................................................................................
05
1.2. Quy luật quyết định của điều kiện kinh tế - xã hội đối với văn hố.................
06
1.2.1. Tính tất yếu, khách quan và phổ biến của quy luật
.............................................................................................................................
06
1.2.2.
Nội
dung
quy
luật
.............................................................................................................................

07

2


1.2.2.1. Sự quyết định của điều kiện kinh tế – xã hội đối với văn hố
.........................................................................................................................
07
1.2.2.2.
Ảnh
hưởng
của
chính
trị
tới
văn
hố
.........................................................................................................................
09
1.2.2.3.
Tính
độc
lập
tương
đối
của
văn
hố
.........................................................................................................................
09

1.3. Quy luật kế thừa trong phát triển văn hố........................................................
11
1.3.1. Tính tất yếu, khách quan và phổ biến của quy luật
.............................................................................................................................
11
1.3.2. Nội dung quy luật
.............................................................................................................................
12
1.3.2.1. Kế thừa di sản văn hoá
.........................................................................................................................
12
1.3.2.2. Cách thức kế thừa
.........................................................................................................................
14
1.3.2.3. Sáng tạo và đổi mới trong sự kế thừa văn hoá
.........................................................................................................................
15
1.4. Quy luật tiếp xúc giao – giao lưu trong phát triển văn hố..............................
16
1.4.1. Tính tất yếu khách quan và phổ biến của quy luật
.............................................................................................................................
16
1.4.2.
Nội
dung
quy
luật
.............................................................................................................................
17
1.4.2.1.

Khái
niệm
tiếp
xúc

giao
lưu
văn
hoá
.........................................................................................................................
17
1.4.2.2.
Thực
chất
tiếp
xúc

giao
lưu
văn
hoá
.........................................................................................................................
19
3


1.4.3. Tiếp xúc – giao lưu văn hoá trong bối cảnh tồn cầu hố hiện nay
.............................................................................................................................
20
Chương 2: Liên hệ với thực tế Việt Nam ............................................................

23
2.1. Liên hệ với thực tế Việt Nam...........................................................................
23
2.2. Liên hệ với đời sống văn hoá của sinh viên Trường Đại học Thủ đô Hà Nội. .
28
KẾT LUẬN............................................................................................................
30
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................
31
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngay sau khi nước nhà giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn
mạnh, “văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”. Lịch sử nhân loại cho thấy,
mọi sự phát triển, xét đến cùng, nếu muốn đi thật xa và có hiệu quả lâu dài,
muốn ngày càng trở nên bền vững hơn thì đều phải nằm trong quỹ đạo của văn
hóa, phải có văn hóa lành mạnh và tiến bộ dẫn đường.
Văn hoá là thứ sản phẩm được sáng tạo bởi con người kể cả về vật chất lẫn
tinh thần, vật thể và phi vật thể thứ sản phẩm mà mỗi cộng đồng người phải
nhào nặn lại tự nhiên và chính bản thân mình hàng nghìn năm mới có được.
Văn hố khơng chỉ là kết quả của mối quan hệ giữa con người với thế giới
tự nhiên mà là thứ để phân biệt xã hội này với xã hội khác đương thời với nó.
Văn hố làm cho cộng đồng đều có cá tính (bản sắc) riêng của mình.
Đối với mỗi cá nhân thì văn hố là do học hỏi mà có – nghĩa là phải tiếp
nhận nó bằng con đường xã hội hố và hội nhập văn hố, chứ khơng phải là di
truyền về mặt sinh học.
Mỗi con người đều là sản phẩm của một nền văn hố, đó là văn hố dân
tộc. Văn hố dân tộc thấm đượm vào mỗi người không chỉ ở tuổi ấu thơ mà cịn
suốt cuộc đời. Như vậy dù có tự giác hay khơng thì mỗi con người đều nghĩ suy,
cảm xúc, cư xử, hành động theo phong tục, tập quán, hệ giá trị, chuẩn mực của
nền văn hoá dân tộc mình, mà trong đó mình là thành viên. Chính vì vậy văn


4


hóa ln gắn liền với đời sống con người chúng ta, vì thiếu văn hóa con người
khơng thể sống được.
Là một sinh viên của trường Đại học Thủ đô Hà Nội, học tập và nghiên cứu
chuyên ngành Chính trị học, hiểu được tầm quan trọng của văn hoá đối với đời
sống xã hội, tìm hiểu về văn hóa là điều kiện để giúp em được tiếp xúc, nhìn
nhận và hiểu thêm về văn hóa của con người. Chính vì vậy nên em đã quyết định
chọn đề tài “Phân tích các quy luật vận động và phát triển của văn hóa. Từ
đó liên hệ với thực tế Việt Nam”.
Tuy nhiên do thời gian nghiên cứu có hạn và kiến thức của bản thân còn
hạn chế nên bài nghiên cứu còn nhiều thiếu xót. Em rất mong nhận được ý kiến
đóng góp của thầy cơ để em có thể hồn thiện hơn bài nghiên cứu của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu phân tích các quy luật vận động và phát triển của văn hố. Từ đó
liên hệ với thực tế Việt Nam.
3. Đối tượng nghiên cứu
Các quy luật vận động và phát triển của văn hoá.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Dựa trên nội dung, kiến thức đã được học ở mơn Văn hố học, và thu thập
dữ liệu, thông tin từ các bài viết, bài báo liên quan.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết
- Phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết
5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của đề
tài nghiên cứu khoa học gồm có 2 chương, 6 tiết. Cụ thể:

Chương 1: Các quy luật hoạt động và phát triển của văn hoá
Chương 2: Liên hệ với thực tế Việt Nam

5


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CÁC QUY LUẬT HOẠT ĐỘNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
VĂN HỐ
1.1. Khái niệm văn hố
Cho đến nay, đã có tới hàng trăm thống kê về định nghĩa văn hố, mỗi định
nghĩa phản ánh một cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau. Nhưng ta có thể hiểu
sơ lược về văn hoá là sản phẩm được con người tạo ra, nhưng không phải thứ
nào con người tạo ra cũng là văn hoá. Văn hoá là cái chân – thiện – mỹ, hướng
tới những điều tích cực. Song, chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo nên con
người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác thơng qua q trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và
phát triển trong q trình hành động và tương tác xã hội của con người. Văn hoá
là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong tất cả
các lĩnh vực của đời sống được tích luỹ, duy trì và bảo tồn trong suốt chiều dài
lịch sử quy định nên bản sắc riêng của mỗi dân tộc.
1.1.1. Các loại hình văn hố
Văn hố tinh thần
Văn hóa tinh thần hay cịn gọi là văn hóa phi vật chất là những ý niệm, tín
ngưỡng, phong tục, tập quán, giá trị, chuẩn mực,... tạo nên một hệ thống. Hệ
thống đó bị chi phối bởi trình độ của các giá trị, đơi khi có thể phân biệt một giá
trị bản chất. Chính giá trị này mang lại cho văn hóa sự thống nhất và khả năng
tiến hóa nội tại của nó.
6



Văn hố vật chất
Ngồi các yếu tố phi vật chất như giá trị, tiêu chuẩn,... nền văn hóa cịn bao
gồm tất cả những sáng tạo hữu hình của con người mà trong xã hội học gọi
chung là đồ tạo tác [18]. Những con đường, tòa cao ốc, đền đài, phương tiện
giao thơng, máy móc thiết bị... đều là đồ tạo tác. Văn hóa vật chất và phi vật chất
liên quan chặt chẽ với nhau. Khảo sát một nền văn hóa có thể thấy văn hóa vật
chất phản ánh những giá trị văn hóa mà nền văn hóa đó coi là quan trọng. Ở các
nước Hồi giáo, cơng trình kiến trúc đẹp nhất và hoành tráng nhất thường là
thánh đường trong khi ở Mỹ, nó lại là trung tâm thương mại. Văn hóa vật chất
cịn phản ánh cơng nghệ hiểu theo khái niệm xã hội học là sự áp dụng kiến thức
văn hóa vào sinh hoạt trong mơi trường tự nhiên. Tháp Eiffel phản ánh cơng
nghệ cao hơn tháp truyền hình Hà Nội. Ngược lại, văn hóa vật chất cũng làm
thay đổi những thành phần văn hóa phi vật chất.
 Khi nghiên cứu nền văn hóa, người ta thường chia thành ba phạm vi khác
nhau
Phạm vi tinh thần;
Phạm vi kỹ thuật;
Phạm vi của các tác phẩm – phạm vi này có một vị trí đặc biệt dành cho
nghệ thuật và các tác phẩm nghệ thuật, nhất là ngôn ngữ. Ngôn ngữ là biểu
tượng của nền văn hóa, nó có mối liên hệ mật thiết với văn hóa. Đối với
con người, biết một thứ ngơn ngữ khơng chỉ đơn giản là có thêm được một
công cụ giao tiếp cần thiết trong đời sống hàng ngày, mà còn là một bước
để bước vào một nền văn hóa và bắt đầu hiểu biết nền văn hóa đó.
1.2. Quy luật quyết định của điều kiện kinh tế - xã hội đối với văn hố
1.2.1. Tính tất yếu, khách quan và phổ biến của quy luật
Trước hết phải thấy rằng, dù văn hoá được thể hiện dưới dạng vật chất, vật
thể hoá trong các vật dụng như các khí cụ, các cơng trình kiến trúc, nhà cửa,
trang phục, tiện nghi hay dưới dạng tinh thần như các nghi lễ, phong tục, tín
ngưỡng, lý thuyết hoa học… thì về thực chất, văn hố vẫn là hoạt động tinh

thần, vẫn thuộc về kiến trúc thượng tầng của xã hội và chịu sự quy định của điều
kiện kinh tế – xã hội.
Tính khách quan của quy luật này biểu hiện ở chỗ, điều kiện sinh hoạt vật
chất là nền tảng của mọi hoạt động văn hố: trước hết, đó là thực trạng kinh tế,
điều kiện sản xuất vật chất của xã hội và những quan hệ sản xuất tồn tại trong xã
hội đó. Nền tảng kinh tế và các quan hệ kinh tế cũng như cơ cấu xã hội bị
phương thức sản xuất chế ước, dù trực tiếp hay gián tiếp cũng quy định những
7


tham số cơ bản của văn hoá: bản chất, tốc độ phát triển, xu hướng và cả cơ cấu
của nền văn hoá.
1.2.2. Nội dung quy luật
1.2.2.1. Sự quyết định của điều kiện kinh tế – xã hội đối với văn hố
Vai trị quyết định của điều kiện kinh tế – xã hội đối với văn hoá biểu hiện
trước hết ở chỗ cơ sở kinh tế – xã hội tạo tiền đề khách quan cho sự phát triển
văn hoá.
Sự tồn tại, vận động và phát triển của văn hoá tất yếu phải dựa trên một nền
tảng vật chất nhất định. Trong nền tảng vật chất ấy, trước hết cần lưu ý đến điều
kiện tự nhiên. Yếu tố này tham gia một cách tồn diện vào văn hố và tác động
mạnh mẽ đến văn hố trên nhiều phương diện. Bởi vì, điều kiện tự nhiên là yếu
tố đầu tiên, thường xuyên và tất yếu của đời sống xã hội. Trong bất kì nền văn
hoá nào, dấu ấn của điều kiện tự nhiên cũng rất sâu đậm, làm thành một yếu tố
đặc trưng bản chất của mỗi nền văn hố.
Tự nhiên cịn là đối tượng thẩm mĩ của văn hoá. Cái đẹp trong tự nhiên
được thể hiện trong văn hoá nghệ thuật. Các lĩnh vực hội hoạ, văn chương, kiến
trúc, âm nhạc… đều khắc hoạ vẻ đẹp của tự nhiên. Trong quan hệ thẩm mĩ với
con người, giới tự nhiên hiện ra với tất cả sự hùng vĩ của nó. Đồng thời, giới tự
nhiên cịn tác động vào tâm lí con người, tạo nên những lối sống, phong tục, tín
ngưỡng hết sức khác nhau.

Sâu xa hơn, chính tự nhiên là đối tượng của sản xuất vật chất – cơ sở của sự
tồn tại và phát triển đời sống con người. Lao động và các hoạt động thực tiễn
của con người là nhân tố đặc biệt quan trọng tạo ra văn hoá, làm cho đời sống
văn hoá phát triển. Đồng thời, bản thân lao động cũng chứa đựng văn hoá. Khi
con người lao động là khi con người thể hiện văn hoá qua cách thức sản xuất, tư
duy sáng tạo, tâm lí con người… Hoạt động kinh tế là hoạt động vật chất, tạo
tiền đề vật chất cho sự tồn tại của văn hoá. Trong một mức độ đáng kể, sự phát
triển kinh tế trực tiếp tác động đến tư duy văn hoá của chủ thể hoạt động. Đời
sống vừa là cơ sở, nền tảng, vừa là yếu tố cấu thành, là biểu hiện của văn hoá.
Đương nhiên, bản thân xã hội hay đời sống xã hội khơng phải là văn hố. Khơng
thể đồng nhất văn hố với đời sống xã hội nói chung. Song văn hố khơng tách
rời xã hội. Văn hố trở thành nội dung của đời sống xã hội. Nghĩa là đời sống xã
hội tạo ra văn hoá là biểu hiện sự tồn tại của mình thơng qua văn hố. Những
điều này cho thấy rằng, cơ sở kinh tế – xã hội bao gồm các điều kiện tự nhiên và
phương thức sản xuất vật chất không chỉ tạo nên tiền đề mà cịn quy định tính
chất, diện mạo của một nền văn hoá.
8


Văn hố lại bị quy định bởi mơi trường sống và kinh tế. Kết quả là hình
thành hai loại hình văn hố khác nhau về nguồn gốc với những tính chất, đặc
trưng riêng. Điển hình cho văn hố gốc nơng nghiệp là các nền văn hố phương
Đơng. Tiêu biểu cho văn hoá gốc du mục và thương nghiệp là những nền văn
hố phương Tây. Có thể phác thảo sự khác biệt đó ở những điểm căn bản sau:
Thứ nhất, trong quan hệ ứng xử với thiên nhiên, các nền văn hố nơng
nghiệp phương Đơng nghiêng về hồ đồng, thuận tự nhiên. Nghề trồng trọt buộc
cư dân phải định cư chờ cây cối lớn lên, sống phụ thuộc vào thiên nhiên. Tơn
trọng và ước vọng sống hồ hợp với thiên nhiên là mong muốn của cư dân các
nền văn hoá trọng tĩnh phương Đơng. Cịn ở loại hình văn hố du mục phương
Tây, nghề chăn ni địi hỏi cư dân phải sống theo lối du cư, nay đây mai đó, ít

phụ thuộc vào thiên nhiên nên dễ có tâm lí coi thường thiên nhiên, mang trong
mình tham vọng chinh phục và chế ngự thiên nhiên.
Thứ hai, trong phương thức tư duy, văn hố phương Đơng, nghề nơng, nhất
là nghề nơng nghiệp lúa nước, cùng một lúc tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố của địa
hình, khí hậu, thời tiết. Điều này đã hình thành nên lối tu duy tổng hợp, biện
chứng. Trong lối tư duy này, sự chú ý về chi tiết có phần bị phân tán, thiên về
kinh nghiệm chủ quan hơn là các cơ sở khách quan và chứng cứ thực nghiệm.
Ngược lại, văn hố phương Tây, nghề chăn ni du mục đòi hỏi sự khẳng định
vai trò các nhân, thêm vào đó, đối tượng mà hàng ngày con người tiếp xúc là
đàn gia súc với từng cá thể độc lập, từ đó hình thành lối tư duy phân tích, chú
trọng vào từng yếu tố. Lối tư duy này là cơ sở cho sự hình thành và phát triển
khoa học.
Thứ ba, trong phương thức sống, con người nống nghiệp phương Đông
sống trong xã hội trọng nông. Do kinh tế nông nghiệp có tính chất tự cung tự
cấp nên lối sống con người thiên về trọng tĩnh, hướng nội, khép kín, ưa tổ chức
xã hội theo nguyên tắc trọng tình. Lối sống trọng tình cảm dẫ đến thái động
trọng đức, trọng văn hơn trọng tài, trọng danh vọng hơn trọng thực. Ở phương
Tây, thương nghiệp phát triển từ thời cổ đại. Những nền kinh tế này đều có xu
hướng trọng thương, cơ động, luôn hướng đến nhu cầu khám phá thị trường
mới. Do đó, phương thức sống của cư dân văn hố phương Tây là trọng lí, trọng
động, hướng ngoại, cởi mở với tâm lí hiếu thắng khơng khiếu hồ, trọng tài hơn
trọng đức.
Thứ tư, trong mối quan hệ ứng xử giữa người và người, lối sống định cư
coi trọng các mối liên hệ xóm giềng lân bang, lấy tình nghĩa làm đầu của văn
hố nơng nghiệp quy định đặc trưng nổi bội, phổ qt của văn hố phương Đơng
9


là ứng xử linh hoạt, mềm dẻo, đề cao tính cộng đồng, nghĩa vụ và trách nhiệm.
Còn lối sống theo nguyên tắc du mục của phương Tây thường dẫn đến lối ứng

xử độc tôn, nặng về các thể, coi trọng lợi ích cá nhân, chủ trương hướng đến sự
phát triển mọi mặt đời sống, vật chất của con người.
Cơ sở kinh tế – xã hội quy định nội dung, bản chất của một nền văn hoá và
của các thành tố văn hoá. Tách rời khỏi cơ sử kinh tế sẽ khơng hiểu được nội
dung, bản chất của văn hố. Chẳng hạn, nền văn hố Phục Hưng khơng có gì
khác hơn là sản phẩm tinh thần của lực lượng xã hội mới đang xuất hiện giữa
lòng chết độ phong kiến và chuẩn bị thay thế chế độ ấy.
Vai trò quyết định của điều kiện – kinh tế xã hội đối với văn hố cịn thể
hiện ở chỗ, cơ sở kinh tế – xã hội góp phần xác định mục tiêu, xu hướng phát
triển của văn hoá.
C.Mác khẳng định: “phương thức sản xuất vật chất quyết định phương thức
sản xuất tinh thần”, rằng con người “phải sống cho đã rồi mới có khả năng làm
ra lịch sử”, và để tồn tại, “con người trước hết phải ăn, mặc ở… rồi sau đó mới
làm ra chính trị, khoa học, nghệ thuật, văn chương…”.
 Điều kiện kinh tế – xã hội quyết định văn hoá và văn hoá tác động trở lại
điều kiện kinh tế – xã hội.
1.2.2.2. Ảnh hưởng của chính trị tới văn hố
Mối quan hệ giữa chính trị với văn hố cũng là sự biểu hiện đặc thù của
mối quan hệ cơ sở kinh tế với văn hoá. Cùng với kinh tế, chính trị quy định
phương hướng phát triển của văn hoá, tạo nên nội dung ý thức hệ của văn hố
và bằng hệ thống các chính sách pháp luật quản lí các hoạt động của văn hố.
Bởi thế, một chế độ chính trị phản động khơng tạo nên nền văn hố chính thống
tiến bộ. Mặc nhiên, trong các chế độ chính trị lỗi thời, phản động, vẫn có thể
xuất hiện các tác phẩm văn hố nghệ thuật có giá trị, đại diện cho tiếng nói của
tầng lớp nhân dân và trí thức tiến bộ. Lênin từng nhận xét rằng, trong cấu trúc
văn hố của một quốc gia ln tồn tại hai nền văn hoá: văn hoá của giai cấp
thống trị và văn hố của giai cấp bị trị.
Khơng nên tuyệt đối hố tính giai cấp của văn hố, đi đến đồng nhất văn
hố với ý thức hệ (chính trị). Chính trị là ý thức hệ của văn hoá nhưng văn hố
khơng bao giờ lại chỉ minh hoạ đơn giản cho chính trị. Trong lịch sử, nhóm “văn

hố vơ sản” ở nước Nga nhưng năm sau Cách mạng tháng Mười đã từng vấp
phải sai lầm này khi họ đưa ra quan điểm siêu hình, ấu trĩ về văn hố nói chung,
về sự nghiệp xây dựng nền văn hố vơ sản nói riêng. Trong cuộc đấu tranh để
loại trừ các quan điểm sai lầm đó, Lênin đã khẳng định rằng, văn hố là khái
10


niệm rộng hơn nhiều so với ý thức hệ. Vì trong bất kì loại hình văn hố nào, dù
là trong khoa học xã hội, trong luân lí hay nghệ thuật… cũng đều chứa đựng
những nội dung khách quan, có tính tồn nhân loại. Như vậy, khơng thể nhìn
thấy tính giai cấp mà bỏ tính dân tộc, tính nhân loại trong văn hố.
1.2.2.3. Tính độc lập tương đối của văn hố
Thừa nhận sự quyết định của điều kiện kinh tế – xã hội đối với nền văn hoá
mới chỉ là một phương diện của vấn đề. Phương diện thứ hai không kém phần
quan trọng của mối quan hệ này là phải thấy được tính “độc lập tương đối” của
văn hố so với kinh tế. Khơng có một cái nhìn biện chứng về mối quan hệ giữa
kinh tế và văn hố, khơng nhìn thấy được tính “độc lập tương đối” của văn hố
thì khó giải thích được thoả đáng nhiều hiện tượng và q trình văn hố.
Điều đầu tiên có thể nhận thấy là nhịp độ vận động và phát triển của văn
hố khơng phải khi nào cũng song hành với kinh tế. Cũng chính Mác đã chỉ ra
rằng, trong lịch sử có những thời kì kinh tế cịn thấp kém nhưng về văn hố tinh
thần thì lại có những linh vực đạt được sự phát triển tương đối cao như thời kì
Hi Lạp cổ đại. Sự quyết định của kinh tế đối với văn hố khơng mang tính trực
tiếp, tức khắc. Khơng pải cứ hễ kinh ttế phát triển cao thì văn hoá phải cao và
ngược lại.
Ai cũng biết rằng, sự phát triển kinh tế tạo cơ sở vật chất kĩ thuật cho hoạt
động văn hố. Những khó khăn mà chúng ta vấp phải hiện nay trong giáo dục,
khoa học, văn hố nghệ thuật… là do nền kinh tế cịn thấp kém, chưa tạo được
những điều kiện cần thiết cho hoạt động văn hoá.
Một nền kinh tế lành mạnh, được xây dựng trên những ngun tắc cơng

bằng, khơng có sự phân hoá dữ dội, một nền kinh tế thực sự đảm bảo cho đời
sống của người lao động, tạo được niềm tin và sự tôn trọng giữa con người với
con người… sẽ là cơ sở khách quan để xây dựng một đời sống tinh thần lành
mạnh. Chính điều này cắt nghĩa, vì sao ở một số nước trình độ kinh tế phát triển
cao nhưng lại chưa xây dựng được một nền văn hố tiên tiến phù hợp. Khơng
những thế, nhiều vấn đề văn hoá đang được đặt ra một cách nghiêm trọng.
Chúng được xem như những vấn đề nan giải của phương Tây. Đó là sự phân hố
giàu nghèo sâu sắc, tệ nạn xã hội bùng nổ, khủng hoảng niềm tin, “lối sống cơ
đơn” và sự “máy móc hố” đời sống con người như những căn bệnh phổ biến
của xã hội hậu công nghiệp, sự lan tràn của chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực
dụng đã làm nghèo nàn đời sống tinh thần, tâm linh của con người.
Ví dụ như nước Mĩ. Trong cuốn “Tập quán trái tim – chủ nghĩa cá nhân và
sự ràng buộc trong đời sống Mĩ” do tập thể năm nhà khoa học biên soạn, chúng
11


ta thấy rõ thực trạng đó. Các nhà nghiên cứu đã tiến hành tiếp xúc với 200 công
dân Mĩ thuộc các ngành nghề và giới tính khác nhau ở các bang California, San
Franxicô, Boston, Philadenphia. Kết quả khảo sát dẫn tới kết luận: chủ nghĩa cá
nhân cực đoạn, vụ lợi đang trở thành lối sống của người Mĩ. Chủ nghĩa cá nhân
đó khiến người Mĩ hiện nay khó giải quyết mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái
cũng như các vấn đề về tình u và hơn nhân, bởi điều đó làm mất “cái tơi” và
“tự do” của mình. Trong các vấn đề về văn hoá, người ta gần như khơng nghĩ
đến việc tìm kiếm chân lí, đào sâu học thuật. Những lời ích tinh thần cao quý
nhất cũng coi là lỗi thời. “Chân lí là cái hữu dụng, cái có ích” – J.Deway (18951952) – người được coi là nhà triết học hiện đại kiệt xuất của nước Mĩ. Ở Mĩ,
tính thực dụng được thể hiện hết cỡ.
C.Mác từng nhận xét: sản xuất tư bản chủ nghĩa thù địch với một số ngành
sản xuất tinh thần (ví dụ thơ ca). Kinh tế xã hội chủ nghĩa, về bản chất, khác
phục được tình trạng đó. Chỉ có điều do những sai lầm trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội và những yếu kém trong cơng tác quản lí, ưu thế của kinh tế xã

hội chủ nghĩa chưa thể hiện được. Và những yếu kém rối ren trên mặt trận kinh
tế của nước ta thời gian trước đây cũng là một trong những nguyên nhân tạo nên
sự xuống cấp của văn hố.
Tính “độc lập tương đối” của văn hố với kinh tế cịn thể hiện ở chỗ văn
hố cịn có tác động tích cực trở lại sự phát triển của cơ sở kinh tế – xã hội. Văn
hoá một khi đã hình thành, cũng là mơi trường phát triển của con người. Nó góp
phần rất lớn vào việc cải tạo các điều kiện kinh tế – xã hội. Văn hố khơng chỉ là
nền tảng tình thần của xã hội mà còn là động lực, hệ điều tiết cho các quá trình
kinh tế – xã hội.
1.3. Quy luật kế thừa trong phát triển văn hố
1.3.1. Tính tất yếu, khách quan và phổ biến của quy luật
Theo quan điểm của chủ nghãi duy vật biện chứng, kế thừa là một trong
những mặt bản chất nhất của quy luật phủ định của phủ định, biểu hiện ra trong
tự nhiên, xã hội và tư duy như là mối liên hệ tất yếu khách quan giữa cái cũ và
cái mới trong quá trình phát triển.
Q khứ khơng bao giờ lại biến mất hồn tồn, trong dịng chảy vơ tận của
thời gian, những nhân tố của quá khứ sẽ để lại dấu ấn nhất định ở hiện tại, tham
gia vào việc tạo lập cái hiện tại, tạo nên sợi dây liên hệ sinh động giữa q khứ
và hiện tại. Sợi dây liên hệ đó chính là sự kế thừa – một mắt khâu tất yếu của sự
phát triển bởi vì cái mới khơng thể ra đời từ hư vơ mà chỉ có thể ra đời trên nền
tảng của cái cũ. Cái mới ra đời là sự phát triển tiếp tục của cái cũ trên cơ sở gạt
12


bỏ mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu của cái cũ, giữ lại và cải tạo những mặt tích cực
cịn thích hợp. Sự phát triển chẳng qua là sự biến đổi trong đó giai đoạn sau bảo
tồn tất cả những mặt tích cực được tạo ra ở giai đoạn trước và bổ sung thêm
những mặt mới cho phù hợp với hiện thực; trong mọi lĩnh vực nếu khơng có kế
thừa thì cũng khơng có sự phát triển. Trong văn hố cũng vậy.
Kế thừa là quy luật cơ bản, tất yếu, phổ biến của sự phát triển văn hóa; văn

hóa là một dịng chảy liên tục khơng đứt đoạn, nối liền quá khứ với hiện tại và
tương lai, kết nối truyền thống với hiện đại, làm nên lịch sử của một cộng đồng
dân tộc. Văn hóa ngày càng phát triển cao càng có xu hướng trở về nguồn cội,
nhờ có kế thừa mà có truyền thống và trầm tích văn hóa qua đó văn hóa thực
hiện chức năng giáo dục “trồng người” và chức năng đảm bảo tính kế tục lịch
sử.
Kế thừa là quy luật nội tại, quy luật sống còn của văn hóa bởi văn hóa là
kết quả của quá trình gìn giữ, bảo quản và lưu truyền các giá trị vật chất và tinh
thần mà nhân loại đã sản sinh. Nhờ những tri thức mà lồi người tích lũy được
qua các thế hệ, truyền lại cho đời sau dưới dạng di sản văn hóa mà xã hội tồn tại,
vận động và phát triển không ngừng.
Kế thừa di sản văn hóa quá khứ là hiện tượng phổ biến, tất yếu đối với mọi
nền văn hóa, ở mọi quốc gia, dân tộc và thời đại, ở đâu mà quy luật này bị phạm
thì ở đó nền văn hóa có nguy cơ bị hủy diệt. Dân tộc đó sẽ khơng cịn sức mạnh,
khơng cịn lí do để tiếp tục tồn tại và phát triển mà tự đưa mình đến chỗ suy
vong.
1.3.2. Nội dung quy luật
1.3.2.1. Kế thừa di sản văn hố
Nói đến kế thừa trong văn hóa là nói đến di sản văn hóa bởi vì kế thừa là kế
thừa những di sản đã có và cũng cần làm rõ khái niệm di sản là gì. Nói chung, di
sản là tất cả những gì quá khứ để lại, những gì con người tạo ra hơm nay thì
ngày mai sẽ là di sản. Di sản là một cái gì đó đã được ấp ủ, do đó được bảo tồn
và phát triển cho các thế hệ hiện tại và tương lai; theo nghĩa rộng di sản văn hóa
là tổng thể cho những mối liên hệ, quan hệ và những kết quả của sản xuất vật
chất và sản xuất tinh thần của các thời kì lịch sử đã qua đó là những giá trị văn
hóa mà loài người đã đạt được, được bảo tồn, chuyển giao lại, được hấp thụ một
cách có phê phán, được phát triển và ứng dụng phù hợp với các nhiệm vụ lịch sử
cụ thể của từng thời đại và phù hợp với những tiêu chuẩn khách quan của tiến độ
xã hội.


13


Trong khoảng 30 năm trở lại đây, phong trào “tìm về cội nguồn” dấy lên
mạnh mẽ ở nhiều nước trên thế giới. Hiện tương đó khơng phải là biểu hiện của
một ý hướng hoài cổ mà là một nỗ lực của các quốc gia trên con đường phát
triển, đang cố gắng lí giải mối quan hệ biện chứng giữa quá khứ và hiện tại, cố
tìm cách giải quyết thoả đáng qian hệ giữa truyền thống và hiện đại. Dân tộc
không thể tiến lên phía trước nếu khơng có q khứ làm điểm tựa. Nhưng không
hề nắm bắt được quá khứ nếu khơng nghiên cứu kĩ những di sản văn hố cịn lại
đến ngày hơm nay qua bao biến thiên lịch sử, trong đó kết tinh những truyền
thống quý báu của dân tộc. Vì vậy, việc nghiên cứu các di sản văn hố của các
quốc gia dân tộc ấy sẽ có một ý nghĩa lớn lao đối với việc tìm hiểu và giải quyết
các vấn đề hiện tại.
Với di sản văn hố, chúng ta ơn duyệt lại q khứ để vững bước trong hiện
đại. Trong nhiều trường hợp, những di sản này còn cung cấp cho chúng ta nhiều
“gợi ý lịch sử”, giúp chúng ta hiểu sâu hơn và xử lí thoả đáng hơn nhiều vấn đề
trọng đại của ngày hôm nay.
Di sản văn hóa một dân tộc thường kết tinh dưới dạng vật thể và phi vật thể
nói cách khác di sản văn hóa có bộ phận tĩnh, được vật thể hóa, biểu tượng cho
những chứng tích của thời gian, có bộ phận động, ln “di chuyển” vào thế hệ
sau thông qua các quan niệm về giá trị, đạo đức, phong tục, lối sống, tín ngưỡng,
tâm linh. Vì vậy di sản văn hóa khơng chỉ có ý nghĩa là biểu tượng của q khứ
mà nó ln ln có tác động mạnh mẽ đến hiện tại và tương lai của cá nhân và
cộng đồng. Nếu quy luật kế thừa là quy luật cơ bản của sự phát triển văn hóa thì
hệ thống di sản văn hóa chính là cơ sở của sự kế thừa. Văn hóa trong thời đại
nào cũng đều đồng thời bao gồm việc sử dụng di sản quá khứ và sáng tạo ra
những giá trị văn hóa mới. Kế thừa di sản là cơ sở cho sáng tạo trong văn hóa do
đó có thể coi di sản văn hóa là xuất phát điểm, là nguồn lực bên trong của sự
phát triển văn hóa, khơng thể có sự phát triển nếu phủ định sạch trơn đối với hệ

thống di sản văn hóa của quá khứ.
UNESCO rất quan tâm đến vấn đề di sản văn hoá của các dân tộc và đã có
nhiều nỗ lực để giúp các quốc gia bảo tồn và phát duy di sản văn hoá trên con
đường phát triển. Theo sự phân chia của UNESCO, di sản văn hoá bao gồm hai
loại là những di sản hữu thể như đình, đền, chùa, miếu, lăng, mộ, nhà sàn… tóm
lại là những cơng trình kiến trúc vật thể và những di sản vơ hình, bao gồm các
biểu tượng tượng trưng và “khơng sờ thấy được” của văn hố được lưu truyền
và biến đổi qua thời gian, với một quá trình tái tạo, “trùng tu” của cộng đồng
rộng rãi. Những di sản văn hố tạm gọi là vơ hình này theo UNESCO, bao gồm
14


cả âm nhạc, múa, truyền thống, truyền miệng, ngôn ngữ, huyền thoại, nghi thức,
phong tục, tập quán, y dược cổ truyền, nghệ thuật ẩm thực, lễ hội, bí quyết và
quy trình cơng nghệ các nghề truyền thống…
Ý thức được tầm quan trọng của việc kế thừa di sản văn hóa, hầu hết mọi
quốc gia hiện nay đều có luật pháp và chính sách bảo vệ, kế thừa di sản văn hóa,
thế giới cũng thành lập ủy ban bảo vệ di sản nằm trong UNESCO. Tất nhiên,
không phải lúc nào con người cũng ý thức được rõ ràng việc kế thừa di sản quá
khứ; nhưng sớm hay muộn con người cũng sẽ phải trả giá đắt cho sự thờ ơ hay
quên lãng đối với di sản văn hóa. Văn hóa thường tìm về những giá trị trường
tồn nên hơn bất cứ lĩnh vực nào khác, nó thực hiện quy luật kế thừa một cách
triệt để và trọn vẹn nhất. Trong quá trình này, ngơn ngữ đóng một vai trị đặc
biệt quan trọng vì nó đảm bảo cho sự thực hiện tính kế thừa giữa các thời đại và
các thế hệ như một thơng điệp xun thời gian, ở đó thơng tin được mã hóa, bảo
tồn và chuyển giao cho các thế hệ kế tiếp, đảm bảo cho lịch sử không đứt đoạn.
1.3.2.2. Cách thức kế thừa
Điều đáng lưu ý là trong q trình phát triển, các lĩnh vực văn hóa vật chất
và văn hóa tinh thân thực hiện quy luật kế thừa theo những cách thức khác nhau.
Trong lĩnh vực sản xuất vật chất, tính kế thừa được thực hiện ngay cả khi con

người không nhận thức được thái độ của mình đối với sự kế thừa đó; ở đây sự kế
thừa các thành tựu văn hóa phản ánh trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
được diễn ra một cách trực tiếp, tất yếu, ngoài ý muốn chủ quan của con người.
Cịn trong lĩnh vực văn hóa tinh thần thì trái lại, con người cũng có ý thức
rõ ràng về việc tiếp thu hay phê phán các giá trị có trước đó. Ở đây sự kế thừa
diễn ra có chọn lọc, phê phán, bổ sung, nâng cao một cách tích cực chủ động;
việc nghiên cứu quy luật kế thừa trong văn hóa tinh thần có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng để hiểu rõ thêm quy luật vận động và phát triển của văn hóa
Khi nói đến sự kế thừa trong lĩnh vực văn hoá tinh thần, người ta thường
hay đề cập đến vấn đề truyền thống như một biểu tượng tập trung nhất của phẩm
chất và bản lĩnh văn hố cộng đồng. Nói đến truyền thống là nói đến những giá
trị đã được hun đúc trong quá khứ. Nhiều truyền thống hình thành từ lâu, trải
qua thử thách của thời gian, của cuộc sống trên nhiều chặng đường lịch sử, đã
trở thành những giá trị trường tồn. Vì thế, truyền thống luôn được xem là tinh
hoa, là nơi trở về của văn hố dân tộc.
Có cả những truyền thống tích cực nữa, thậm chí cịn có ý nghĩa tiêu cực.
Những truyền thống này có thể sống dai dẳng một phần do quán tính lịch sử,
một phần là nhờ sự bảo dưỡng của các thế lực bảo thủ trong xã hội. Dĩ nhiên,
15


cộng đồng phải sớm loại bỏ các truyền thống thuộc loại này để chúng không trở
thành vật cản trên con đường tiến lên phía trước.
Khơng chỉ khác với lĩnh vực văn hóa vật chất trong cách thức kế thừa,
một số yếu tố của văn hóa tinh thần cịn chịu sự chi phối của quy luật kế thừa
theo những đặc trưng riêng chẳng hạn như khoa học và nghệ thuật. Nhưng nghệ
thuật và khoa học vẫn có cách kế thừa khác nhau. Các thành tựu nghệ thuật quá
khứ thường được các nghệ sĩ thế hệ sau sử dụng một cách gián tiếp trong khi các
thành tựu khoa học lại được chuyển dịch một cách trực tiếp bởi các khoa học đi
sau. Nghệ thuật có kế thừa về nội dung nhưng chủ yếu vẫn ở khía cạnh hình

thức nghệ thuật, tính độc đáo của sáng tạo nghệ thuật không cho phép nghệ sĩ
bắt chước thành tựu của người đi trước dù người đi trước là một thiên tài. Về sự
khác nhau này, một nhà văn hóa thế giới đã có một câu nói nổi tiếng: “Sự lặp lại
là mẹ đẻ của khoa học và là dì ghẻ của nghệ thuật”.
1.3.2.3. Sáng tạo và đổi mới trong sự kế thừa văn hoá
Kế thừa khơng có nghĩa là “phục cổ” một cách ngun xỉ, máy móc, các
thế hệ sau này khi khai thác di sản quá khứ bao giờ cũng xuất phát từ yêu cầu
của thực tiễn mới. Kế thừa “vốn cũ” quý báu của dân tộc là cần thiết nhưng chỉ
khôi phục những gì là tinh hoa, tích cực, biết đấu tranh loại bỏ những gì đã trở
nên lạc hậu, bảo thủ đồng thời còn phải biết tiếp thu những cái mới hiện đại, cần
giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, kế thừa và phát
huy, để vừa duy trì được bản sắc dân tộc vừa thích ứng với đời sống xã hội luôn
biến động. Muốn bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống phải đặt bảo tồn và
phát triển trong mối quan hệ biện chứng, tránh sự phiến diện, một chiều; phải
thấy rằng bảo tồn mới chỉ là một điều kiện cho sự phát triển. Sự kế thừa phải
ln song hành với đổi mới vì văn hóa khơng chỉ có nhiệm vụ giữ gìn và lưu
truyền các giá trị quá khứ mà còn phải sáng tạo ra những giá trị mới.
Các chuyên gia cho rằng, việc bảo tồn di sản văn hố phi vật thể khơng nên
dừng ở mức lưu giữ tài liệu về truyền thống như các hình thức cố định, mà cần
đầu tư vào các truyền thống như những hình thức sinh động hoặc năng động.
Giáo sư Kawada Junzo – một nhà nhân loại học người Nhật, một chuyên
gia của UNESCO trong chương trình bảo tồn di sản văn hoá phi vật thể của thế
giới cho rằng, khi chúng ta muốn làm sống lại các nền văn hố truyền thống thì
phải tính đến khả năng thị trường hố của nó. Nếu khơng thế hệ sau sẽ không thể
bảo tồn và phát triển nền văn hoá truyền thống với một sự quan tâm và nhiệt tình
thực sự. Nếu chúng ta muốn bảo tồn truyền thống bằng thể chế, chẳng hạn bằng
chính phủ, thì nó sẽ khơng cịn là một thứ văn hóa ra sống động nữa mà chỉ là
16



các truyền thống khô héo. Điều cần thiết là phải nắm bắt được tinh thần gốc của
truyền thống,Khôi phục và sáng tạo lại nó, khơng lệ thuộc vào những “hình
thức” kế thừa để tăng thêm sức sống mới cho truyền thống trong khung cảnh
hiện đại. Đối tượng chuyển tải truyền thống cần sống trong thế giới “cận đại” để
có thể tìm được giải pháp cho vấn đề “khả năng thị trường”. Nếu ngược lại, lại
truyền thống bị sửa đổi hời hợt nhằm mục đích “tiêu thụ được trên thị trường”
thì phải coi đó là sự phá hoại truyền thống.
Vấn đề thứ hai liên quan tới phương pháp kĩ thuật chuyển giao truyền
thống. Mặc dù cần phải hiểu tinh thần gốc, khơi phục tinh thần gốc đó đó nhưng
bối cảnh xã hội đã thay đổi, việc lưu giữ truyền thống sẽ rất khó khăn. Điều này
liên quan đến hầu hết các loại hình ảnh nghệ thuật truyền thống, đặc biệt là nghệ
thuật biểu diễn sân khấu, âm nhạc.
Đối với di sản văn hóa vật thể, sự bảo tồn, tồn tại cũng khơng đơn giản.
Chiến lược bảo tồn địi hỏi phải tính đến một số nhân tố quan trọng như vấn đề
bản sắc địa phương, mục tiêu phát triển kinh tế, ảnh hưởng của môi trường tự
nhiên, thái độ con người đối với di sản… Nhiều di sản văn hóa vật thể của thế
giới khi đang bị phá hủy hoặc có nguy cơ bị xóa sổ. Bởi lẽ văn hóa là sản phẩm
của cộng đồng cư dân sở tại. Nó phải thuộc về những người đã tạo ra nó. Chúng
liên quan chặt chẽ đến cách sống ảnh của người dân địa phương và trước tiên,
chúng cần được chính họ bảo vệ.
Sự nghiệp phát triển văn hóa dân tộc địi hỏi phải biết tiếp thu có chọn lọc
tất cả những tinh hoa văn hóa của cộng đồng và nhân loại. Bản thân sự ra đời
của chủ nghĩa Mác đã nói lên điều đó. Lênin nói, chủ nghĩa Mác sở dĩ giành
được ý nghĩa lịch sử trên toàn thế giới về mặt hệ tư tưởng của giai cấp vơ sản
cách mạng là vì chủ nghĩa Mác không những đã không vứt bỏ những thành tựu
hết sức quý báu của thời đại tư sản mà trái lại còn tiếp thu và cải tạo tất cả
những gì quý báu trong hơn 2000 năm phát triển của tư tưởng và văn hóa nhân
loại. Văn hóa ln vận động trong cái lĩnh vực tương đối, nó khơng hề đóng cửa
từ chối những cái mới từ bên ngồi có điều quá trình tiếp nhận những nhân tố
ngoại lai thường là q trình tiếp biến văn hóa chứ khơng hề là quá trình tiếp thu

thụ động.
1.4. Quy luật tiếp xúc giao – giao lưu trong phát triển văn hố
1.4.1. Tính tất yếu khách quan và phổ biến của quy luật
Tiếp xúc – giao lưu văn hóa là một hiện tượng mang tính quy luật (tất
yếu, khách quan và phổ biến) trong sự phát triển của các nền văn hóa. Đây cũng
là quy luật sống cịn của văn hóa. Văn hóa có tính bền vững và ổn định tương
17


đối nhưng nó cũng ln địi hỏi sự giao, tiếp biến thường xun, khơng nhận sự
khép kín. Xu hướng ngoại để tìm hiểu, tiếp nhận những cái mới, cái bổ ích, cần
thiết là một xu hướng có tính khách quan lịch sử, phản ánh nhu cầu tồn tại và
phát triển.
Những dịng sơng, văn hóa của mỗi dân tộc, quốc gia, khu vực đều bền bỉ
tích lũy, tiếp nhận và chọn lộc những tinh hoa từ muôn nẻo, không ngừng
chuyền tải và biến đổi, giao lưu và mở rộng để rồi góp phần riêng của mình vào
đại dương văn hóa menh mơng của nhân loại. Văn hóa là một dịng chảy liên tục
của nhân loại, nó khơng có chỗ cho sự khép kín. Nó phải ln được mở cửa để
được giao lưu với bên ngồi để tiếp nhận nền sinh khí mới cho bản thân nền văn
hóa phát triển.
Thực tiễn lịch sử đã chứng ninh, tiếp xúc và giao lưu văn hóa là một hiện
tượng có tính quy luật phổ biến, chi phối sự vận động và phát triển của mọi nền
văn hoá ở mọi quốc gia, mọi dân tộc và mọi thời đại.
Thực chất sự giao lưu và tiếp xúc văn hoá là sự tác động biện chứng giữa
cái nội sinh và cái ngoại sinh của nền văn hoá. Cái nội sinh là những thành tốt,
cấu trúc bên trong của hệ thống văn hoá quy định bản sắc, diện mạo, sức sống
nội tại của 1 nền văn hố. Cịn cái ngoại sinh là cái được sinh ra do tác động từ
bên ngồi vào trong mỗi về văn hố dân tộc. Cái nội sinh và cái ngoại sinh có sự
tác động biện chứng qua lại lẫn nhau. Tác động biện chứng giữa cái nội sinh và
cái ngoại sinh của nền văn hố dân tộc. Cái nội sinh giữ vai trị chủ đạo, quyết

định đối với định hướng mối quan hệ của chúng đối mới cái ngoại sinh. Cái
ngoại sinh có ảnh hưởng mạnh mẽ dưới dạng kịch thích hay kìm hãm sự phát
triển của cái nội sinh. Cái ngoại sinh tác động vào cái nội sinh theo cái hướng
chính: một là, cưỡng bức áp đặt; hai là, tự nguyện thích nghi.
1.4.2. Nội dung quy luật
1.4.2.1. Khái niệm tiếp xúc và giao lưu văn hoá
Thuật ngữ tiếp xúc và giao lưu văn hóa được sử dụng khá rộng rãi trong
nhiều ngành khoa học xã hội như khảo cổ học, dân tộc học, xả hội học, văn hóa
học v.v..., tức là những ngành khoa học có đối tượng nghiên cứu là con người và
xã hội, nhân văn. Khái niệm tiếp xúc và giao lưu vân hóa được dịch từ những
thuật ngủ như cultural contacts, cultural exchanges, acculturation của các nước
phương Tây. Nhưng ngay bản thân ở các nước phương Tây, các khái niệm này
cũng được dùng bởi những từ khác nhau. Người Anh thích dùng chữ Cultural
Change (có thể dịch là trao đổi văn hóa), người Tây Ban Nha dùng chữ
Transculturation (có nghĩa là di chuyển văn hóa), người Pháp có thuật ngữ
18


Interpenetration des civilisations (có nghĩa là sự hịa nhập giữa các nền văn
minh), người Hoa Kỳ dùng thuật ngữ acculturation. Đương nhiên, nội hàm của
các thuật ngữ trên ở các nước có giải hạn chung, nhưng các thuật ngữ đều có
những nét khác nhau nhát định về sắc thái. Khái niệm acculturation được các
nhà nghiên cứu ở Việt Nam dịch khơng thống nhất có người dịch là văn hóa hóa,
có người dịch là đan xen văn hóa, có người dịch là hỗn dung văn hóa, có người
dịch là giao thoa văn hóa Cách dịch được nhiéu người chấp nhận là giao lưu văn
hóa, tiếp (xúc) và biến (đổi) văn hóa. Acculturation là thuật ngữ người Mĩ hay
dùng. Khái niệm này đã được các nhà nhân học văn hoá Mĩ: R.Redifield
(R.Ritdiphin), R.Linton và M.Herkovits đưa ra vào năm 1936. Họ đã định nghĩa
nó như sau: Dưới từ acculturation, ta hiểu là hiện tượng xảy ra khi những nho'm
người ctí văn hda khác nhau, tiếp xúc lâu dài và trực tiếp, gây ra sự biến đổi mơ

thức (pattern) văn hóa ban đầu của một hay cả hai nhóm.
Trên bước đưịng phát triến của xã hội loài người, cơ sờ kinh tế là nhân tố
quyết định. Sự biến đổi này được đẩy nhanh thêm do giao lưu văn hóa, ban đấu
giữa các tộc người gần gũi nhau, cùng trình độ và về sau, là giữa các tộc người
hay dân tộc có trình độ phát triển xà hội khác nhau. Sự biến đổi của hàn sắc văn
hóa dân tộc chịu sự chi phối của nhiểu nhân tố Nhông nét lạc hậu, lỗi thời sẽ dán
mất đi để thay thế bằng những gì được khẳng định là vân minh, hiện đại. Ngoài
hoạt động trao đổi kinh tế cịn có những hoạt động trao đổi "phi kinh tế" mà ảnh
hưởng của chúng đến giao lưu văn hóa khơng nhỏ (sự trao đổi tặng phẩm, vật
phẩm tơn giáo...). Sự tiếp xúc văn hóa cịn có thể có được nhờ những sự tiếp xúc
khác như quan hệ hôn nhân, quan hệ ngoại giao… Các cuộc thiên di lớn nhỏ,
luôn luôn xảy ra trong thời nguyên thủy và cổ trung đại làm cho các tập đồn
người có văn hóa khác nhau đã tiến đến bên nhau hoặc sống xen kẽ vào nhau.
Đó cũng là một yếu tố quan trọng tạo ra sự tiếp xúc và giao lưu văn hóa. Giao
lưu văn hóa vừa là kết quả của trao đổi, vừa là chính bán thân sự trao đổi. Cá
hiểu như vậy mới thấy hết tấm quan trọng của giao lưu văn hóa trong lịch sử
nhân loại, vì sản xuất, trao đổi là một động lực thúc đẩy sự phát triển của lịch sử,
như nhận định của Mác và Ăngghen: “Người ta ln ln phải nghiên cứu và
viết lịch sử lồi người gán liển với lịch sử của công nghiệp và của trao đổi” và
“Những lực lượng sản xuất, nhất là những phát minh, để đạt được ở một địa
phương có mất đi hay không mất đi đối với sự phát triển sau này, điều đó chỉ
phụ thuộc vào sự mà rộng của trao đổi thơi”. Nói cách khác, giao lưu và tiếp
biến văn hóa là sự tiếp nhận văn hóa nước ngồi bởi dân tộc chủ thể. Q trình
này ln ln đặt mỗi tộc ngưùi phải xử lí tốt mối quan hệ biện chứng giữa yếu
19


tố nội sinh và yếu tố ngoại sinh hai yếu tố này ln có khả nàng chuyến hóa cho
nhau và rất khó tách biệt trong một thực thể văn hóa có yếu tố ở giai đoạn này là
yếu tố ngoại sinh nhưng đến giai đoạn sau, những tính chất của yếu tổ ngoại sinh

ấy khơng cịn hoặc nhạt dần đến nỗi người ta tưởng rằng đó là yếu tố nội sinh.
Hơn nữa, kết quả của sự tương tác giữa hai yếu tố này thường diễn ra theo hai
trạng thái: một là yếu tố ngoại sinh lấn át, triệt tiêu yếu tố nội sinh; hai là có sự
cộng hưởng lẫn nhau, yếu tố ngoại sinh dần dần trở thành yếu tố nội sinh hoặc bị
phai nhạt căn tính của yếu tố ngoại sinh. Nhìn ở phương diện thái độ của tộc
người chủ thể, sự tiếp nhận các yếu tố ngoại sinh cũng có hai dạng thể hiện: một
là tự nguyện tiếp nhận; hai là bị cưỡng bức tiếp nhận. Mức độ của sự tiếp nhận
trong giao lưu cũng khác nhau có sự tiếp nhận đơn thuấn vả sự tiếp nhận sáng
tạo. Sự tiếp nhận đơn thuần khi nhìn ở ý nghĩa tương đối là phổ biến trong mọi
người ở tộc người chủ thể. Trong khi đó, sự tiếp nhận có sáng tạo lại là sự tiếp
nhận có sự kiểm sốt của lí trí. Và, sự tiếp nhận cơ sáng tạo này cũng có ba mức:
Thứ nhất là khơng tiếp nhận tồn bộ mà chỉ chọn lọc lấy những giá trị thích
hợp cho tộc người mình. Thứ hai là tiếp nhận cả hệ thống nhưng đã có sự sáp
xếp lại theo quan niệm giá trị của tộc người chủ thể. Thứ ba là mô phỏng và biển
thể một số thành tựu của văn hóa tộc người khác bởi tộc người chủ thể.
Như thể, quan hệ biện chúng giữa yếu tố nội sinh và yếu tố ngoại sinh đặt
ra đòi hỏi với chỉnh tộc người chủ thể là nội lực của chính nó, hay nói cách khác
là bàn sắc và truyền thống văn hóa của tộc người tiếp nhận. Trên cái nhìn lịch
sử, bản sác và truyền thống không phải là yếu tố nhất thành bất biến Sự vận
động của mỗi nên văn hóa trong khơng gian và trong thơi gian ln ln là sự
vận động của các yếu tổ bất biến và khá biến giữa cái cố hữu và cái cách tân.
Cái khạ biến phát triển đến mức độ nào đó sẽ làm thay đổi chỉnh thực thể văn
hóa ấy, như quy luật, lượng đổi, chất đổi.
Ngày nay, chúng ta đã nhận thức được rằng tiếp biến và giao lưu văn hóa là
quy luật phát triển của văn hóa, quy luật tất yếu của đời sống, một nhu cầu tự
nhiên của con người hiện tại.
1.4.2.2. Thực chất tiếp xúc và giao lưu văn hoá
Trong buổi đầu của lịch sử nhân loại, giao lưu và tiếp xúc văn hóa thường
xây ra như là kết quả của các hoạt động tiếp xúc khác giữa các cộng đồng người.
Nhìn chung giao lưu văn hóa được hiểu như một quá trình trao đổi phương thức

hoạt động và giao tiếp của con người trong quá trình phát triển của lịch sử. Như
vậy, giao lưu và tiếp xúc văn hóa là sự vận động thường xuyên của xã hội và văn
hóa, cơ sở của giao lưu văn hóa là giao lưu kinh tế, con người muốn tồn tại
20


không thể sống biệt lập mà phải liên kết với nhau thành các cộng đồng người và
thực hiện hành vi trao đổi giữa các thành viên trong cộng đồng và giữa các cộng
đồng với nhau. Trao đổi ở đây trước hết là trao đổi nguyên liệu hoặc sản phẩm –
tức kinh tế, vì thế mà “một hoạt động có ý nghĩa đặc biệt với giao lưu văn hóa là
trao đổi kinh tế, giữa các cộng đồng người sống trên địa bàn khác nhau thường
có sự trao đổi nguyên liệu hoặc sản phẩm với nhau mà sau này là sự trao đổi
hàng hóa”.
Ngồi hoạt động trao đổi kinh tế cịn có những hoạt động trao đổi “phi kinh
tế” ảnh hưởng của chúng đến giao lưu văn hố khơng nhỏ như trao đổi tặng
phẩm, vật phẩm tôn giáo… Sự tiếp xúc văn hố cịn có thể có được nhờ những
tiếp xúc khác nhau như quan hệ hôn nhân, quan hệ ngoại giao…
Sự tiếp xúc kinh tế - xã hội giữa các nhóm người đã tạo ra sự tiếp xúc và
giao lưu văn hóa, hoạt động giao lưu văn hóa diễn ra trên cơ sở sự tiếp xúc qua
lại giữa những nhóm người thuộc những nền văn hóa khác nhau. Qua đó, một số
yếu tố văn hóa ở cộng đồng người này có thể lan truyền đến cộng đồng người
khác, tùy theo các mức độ khác nhau, các yếu tố văn hóa này có khi chỉ có tính
riêng lẻ, cá biệt, có khi hợp thành một hệ thống chặt chẽ, kết dính với những yếu
tố văn hóa bản địa, bị “bản địa hóa” hoặc làm đổi mới mạnh mẽ các yếu tố văn
hóa bản địa. Giao lưu văn hóa vừa là kết quả của trao đổi vừa là chính bản thân
sự trao đổi đó, có hiểu như vậy mới nhận thức được đầy đủ tầm quan trọng của
giao lưu văn hóa trong lịch sử nhân loại; vì bên cạnh sản xuất, trao đổi cơ sở, là
một động lực thúc đẩy sự phát triển lịch sử.
Q trình giao lưu và tiếp biến văn hóa địi hỏi mỗi quốc gia, dân tộc phải
xử lí tốt mối quan hệ biện chứng giữa yếu tố nội sinh và yếu tố ngoại sinh trong

phát triển văn hóa. Trong thực tế, yếu tố nội sinh và ngoại sinh luôn có khả năng
chuyển hóa cho nhau và rất khó tách biệt trong một thực thể văn hóa, có yếu tố ở
giai đoạn này là ngoại sinh nhưng đến giai đoạn sau những tính chất của yếu tố
ngoại sinh khơng cịn hoặc nhạt dần đến nỗi người ta tưởng rằng đó là yếu tô nội
sinh. Hơn nữa, kết quả của sự tương tác giữa hai yếu tố này thường diễn ra theo
hai trạng thái: một là yếu tố ngoại sinh lấn át, triệt tiêu yếu tố nội sinh; hai là có
sự cộng hưởng lẫn nhau, cái ngoại sinh dần trở thành cái nội sinh hoặc bị phai
nhạt căn tính ngoại sinh của mình.
Việc xử lí mối quan hệ giữa yếu tố nội sinh và yếu tố ngoại sinh địi hỏi
chính tộc người chủ thể phải có bản lĩnh văn hóa nhất định, được xây dựng trên
cơ sở bản sắc và truyền thống văn hóa của mình. Sự tiếp nhận khơng có nghĩa là
xóa bỏ văn hóa của cộng đồng này hay cộng đồng kia mà là tiếp nhận trên cơ sở
21


giữ gìn bản sắc riêng. Lịch sử văn hóa nhân loại là lịch sử của các dịng chảy
văn hóa ln gặp gỡ với nhau nhưng khơng hồn tồn hịa chung hay xóa sạch
các dịng chảy khác nhau. Vì vậy giao lưu văn hóa là nhu cầu học hỏi lẫn nhau
để phát triển chứ không phải là sao chép nhau; giao lưu, tiếp biến văn hóa là làm
giàu, là tự bồi đắp và làm phong phú thêm nền văn hóa của mình, là thích ứng
và là điều kiện để tồn tại và phát triển văn hóa dân tộc.
1.4.3. Tiếp xúc – giao lưu văn hố trong bối cảnh tồn cầu hố hiện nay
Giao lưu văn hóa, đặc biệt là giao lưu văn hóa với phương Tây là một vấn
đề mà các nhà khoa học, văn hóa của thế giới ngồi phương Tây đặc biệt quan
tâm. Như đã thấy, q trình đó đã được bắt đầu từ nhiều thế kỉ về trước, trên lĩnh
vực này các nhà văn hóa cũng đã có những tổng kết lí thuyết và thực tiễn sâu sắc
tuy nhiên trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay, q trình tiếp xúc – giao lưu văn
hóa đang đặt ra nhiều vấn đề lí luận và thực tiễn mới cần được thường xun
giải quyết.
Tồn cầu hóa là một q trình chuyển đổi phức tạp, có nhiều tầng nấc và

tiềm ẩn nhiều mâu thuẫn, xung đột bởi vậy khó có thể địi hỏi một thái độ ứng
xử duy nhất với nó. Ở một góc nhìn khác trong văn hóa, người ta hi vọng rằng
giao lưu văn hóa tích cực trong điều kiện bùng nổ của cách mạng khoa học công
nghệ sẽ làm thay đổi nhận thức của con người về vấn đề dân tộc và bản sắc, sẽ
tạo ra các bản sắc văn hóa đa tầng và mềm dẻo, khơng bị ràng buộc vào khuôn
khổ nhà nước – dân tộc. Theo nghĩa đó, người ta trơng đợi việc tạo ra một kiểu
văn hóa đại chúng mới vượt ra ngồi biên giới các quốc gia; các nền văn hóa
chủng tộc và địa phương vốn đã phải chịu những bất lợi thiệt thòi, bất bình đẳng
về kinh tế, chính trị hay văn hóa trong khn khổ nhà nước, dân tộc sẽ có điều
kiện để giao lưu bình đẳng trong một sân chơi có luật lệ chung. Các giá trị văn
hóa cổ truyền của họ cũng sẽ được nhìn nhận và sáng tạo lại qua q trình giao
lưu với các nền văn hóa khác trên thế giới, với cách nhìn này người ta cho rằng
tồn cầu hóa đưa lại những cơ hội to lớn cho sự học hỏi, hiểu biết lẫn nhau giữa
các dân tộc.
Tiếp xúc giao lưu văn hóa là quy luật phổ biến của mọi thời đại, trong kỉ
ngun tồn cầu hóa nhân loại lại càng cần phải tư duy một cách sâu sắc và lựa
chọn cách thức phù hợp để có thể tiến hành giao lưu văn hóa giữa các quốc gia,
giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình này. Nói cách khác, dù
phản đối hay ủng hộ tồn cầu hóa về phương diện văn hóa, các quốc gia đều đã
nhận thức được rằng giao lưu văn hóa nói chung và giao lưu văn hóa với phương

22


Tây nói riêng là điều khơng thể tránh khỏi do đó thơng minh hơn cả vẫn là chủ
động tham gia vào hoạt động giao lưu này.
Các chuyên gia văn hoá lưu ý đến ba nhân tố quan trọng liên quan đến q
trình giao lưu, có thể xem như ba ngun tắc để thực hiện giao lưu văn hoá:
Một là, giao lưu văn hố khơng nên có tính hời hợt.
Hai là, giao lưu văn hố khơng phải bình đẳng và hai chiều.

Ba là, mỗi người, mỗi cộng đồng dân tộc khi trao đổi văn hố phải có bản
sắc riêng của mình.
Giao lưu văn hoá phải được thực hiện trên cơ sở tơn trọng và đề cao tính
độc lập của mỗi quốc gia để tạo nên sự thốngnhất trong đa dạng, chứ không phải
sự đồng nhất đơn giản, tẻ nhạt và nghèo nàn. Thừa nhậnn sự đặc biệt của các
truyền thống văn hoá khác nhau là nhằm làm giàu thêm, phong phú thêm thế
giới của chúng ta. Sự đa dạng văn hoá về mặt này có thể so sánh với sự đa dạng
sinh học. Nó khơng phải là một thứ hàng xa xỉ có thể dùng được mà là một thứ
cần thiết cho sự sống cịn của lồi người và là một sự địi hỏi cho sự nảy nở
phồn vinh của lồi người.
Để thực hiện được việc giao lưu văn hóa hiện nay, bên cạnh nhiều điều
kiện, mỗi dân tộc còn phải có tinh thân khoan dung tích cực về văn hóa; tinh
thần này một mặt xa lạ với thái độ bảo thủ, tự giam hãm mình trong tính riêng
biệt về văn hóa, khước từ đối ngoại, giao lưu và đổi mới; mặt khác nó cũng
chống lại sự tiếp nhận xơ bổ mọi thứ gọi là “tân kì” của văn hóa ngoại lai để đi
đến chỗ bị đồng hóa, bị hịa tan chứ khơng phải là hội nhập với nền văn hóa thế
giới. Tinh thần khoan dung tích cực phải định hướng cho việc lựa chọn, tiếp thu
những yếu tố nhân bản, hợp lí, khoa học, tiến bộ của văn hóa thế giới cả phương
Đông và phương Tây để làm giàu cho văn hóa dân tộc. Để tiến tới một nền văn
hóa thế giới hiện đại trong đa dạng, chúng ta phải chấp nhận sự tồn tại của các
giá trị khác nhau và tiến hành đối thoại giữa các dân tộc có giá trị khác nhau.
Nói cách khác, đối thoại, giao lưu văn hóa có ý nghĩa rất quan trọng để chúng ta
giải quyết các vấn đề của đời sống xã hội hiện đại.
Tương lai của thế giới sẽ ngày càng được định hình trên cơ sở nhận thức
về sự phụ thuộc qua lại giữa các nền văn hóa và các xã hội khi phải đối mặt với
các thách thức toàn cầu. Do vậy, chúng ta phải khuyến khích các cuộc đối thoại
và hoạt động liên văn hóa do các chính phủ hay các tổ chức dân sự tiến hành
nhằm tăng cường hiểu biết và phát triển văn hóa các dân tộc. Việc đối thoại giữa
các tôn giáo, việc đánh giá lại văn hóa khoa học và việc tìm hiểu các trào lưu
tinh thần mới đều là một phần của cố gắng này. Những nỗ lực đó sẽ dọn đường

23


để xây dựng những chuẩn mực đạo đức mới trước những tình thế bất ngờ như kĩ
thuật gien, sự thay đổi mơi trường tồn cầu và quan hệ qua lại giữa sự đa dạng
văn hoá và sinh học.

CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG CÁC QUY LUẬT VẬN ĐỘNG VÀ PHÁT
TRIỂN VĂN HÓA VÀO VIỆT NAM
2.1. Liên hệ với thực tế Việt Nam
Dù được hiểu theo nghĩa rộng hay hẹp thì văn hố cũng vẫn do con người
sáng tạo ra, được lưu lại và được trao truyền từ đời này sang đời khác, từ thế hệ
này sang thế hệ khác, đồng thời không ngừng được các thế hệ nối tiếp nhau hun
đúc và làm phong phú thêm. Văn hố, như trên đã nói, bao hàm hai mặt cơ bản
nhất là văn hóa vật chất và văn hoá tinh thần, hoặc là văn hoá vật thể và văn hoá
phi vật thể. Dù tồn tại dưới hình thức cụ thể nào thì văn hố cũng vẫn là những
nguồn lực quan trọng và đóng vai trị “động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế –
xã hội” như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII đã khẳng định. Nếu
văn hoá được thể hiện ra dưới dạng các sản phẩm vật thể thì cách thức khai thác,
cách thức sử dụng vai trò nguồn lực này sẽ khác với cách thức khai thác và sử
dụng nguồn lực văn hóa phi vật thể.
Có thể nói, nguồn lực các sản phẩm văn hóa vật thể nhân tạo và tự nhiên
nhưng đã có bàn tay gia cố với các mức độ khác nhau của con người ở nước ta
hết sức phong phú và đa dạng. Các kỳ quan thiên nhiên và nhân tạo đặc biệt có
giá trị được UNESCO cơng nhận là di sản văn hóa thế giới cũng như nhiều di
tích văn hóa nổi tiếng khác khắp cả nước với “vẻ đẹp bất tận”, như Sa Pa (tỉnh
Lào Cai), Vịnh Hạ Long, đảo Cơ Tơ, di tích n Tử (tỉnh Quảng Ninh), Văn
Miếu – Quốc Tử Giám, Phố cổ (Hà Nội), Mộc Châu (tỉnh Sơn La), Mai Châu
(tỉnh Hịa Bình), Bái Đính, Tràng An (tỉnh Ninh Bình), động Phong Nha – Kẻ
Bàng (tỉnh Quảng Bình), Kinh thành Huế (tỉnh Thừa Thiên Huế), Mỹ Sơn, Hội

An (tỉnh Quảng Nam), Địa đạo Củ Chi – Bến Dược (Thành phố Hồ Chí
Minh),... là những điểm du lịch thu hút đơng đảo du khách trong nước và quốc
tế, đang mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách các địa phương và cả nước. Nếu
tổ chức kết nối tốt các khu du lịch này, kết hợp giới thiệu các giá trị lịch sử dân
24


tộc thì hiệu quả nhiều mặt sẽ tăng lên đáng kể so với việc tổ chức đơn lẻ hoặc
mạnh ai nấy làm.
Một vấn đề cần được đề cập sâu hơn là nguồn lực văn hố phi vật thể, hay
cịn gọi là các nguồn lực văn hóa tinh thần đối với sự phát triển của đất nước. Có
thể hiểu, mặt đời sống tinh thần của xã hội là trình độ phát triển mà con người và
xã hội đã đạt được trên các khía cạnh quan trọng, như trình độ học vấn của
người dân, trình độ phát triển của khoa học – cơng nghệ, của văn học và nghệ
thuật; văn hóa đạo đức, văn hóa chính trị, văn hóa lãnh đạo và quản lý xã hội;
văn hố kinh doanh, văn hóa giao tiếp, văn hóa ứng xử trong xã hội giữa con
người với con người và giữa con người với thiên nhiên, bao trùm hơn cả là trình
độ văn hóa triết học, bởi như C.Mác nói, giữa tư duy của con người và tầm nhìn
triết học với văn hóa có sự gắn bó hữu cơ, và rằng triết học phải “trở thành linh
hồn sống của văn hoá...”
Trong thế giới đương đại, những mặt này của văn hóa ngày càng đóng vai
trị quan trọng, góp phần đẩy nhanh hơn tốc độ phát triển của xã hội mà trước
đây chưa từng có. Các nguồn lực văn hoá tinh thần, như các di sản nghệ thuật,
các tinh hoa văn hóa dân gian, âm nhạc dân tộc,... nếu được khai thác tốt vừa để
phục vụ du lịch, vừa để giới thiệu quảng bá các giá trị văn hóa tinh thần của dân
tộc ra thế giới nhằm thu hút du khách đến nước ta cũng sẽ tạo được cú hích cho
du lịch phát triển, góp phần khơng nhỏ cho ngành cơng nghiệp văn hố.
Trước hết, trong kỷ ngun tồn cầu hố, mọi mặt của đời sống xã hội và
thế giới đang có những biến động chính trị – xã hội rất khó lường như hiện nay
thì văn hố chính trị giữ vai trị định hướng. Trong điều kiện như vậy, đất nước

muốn phát triển nhanh và bền vững thì nhất định văn hố phải thấm vào mọi mặt
của đời sống xã hội. Đặc biệt, văn hoá phải thấm sâu vào tư duy của những con
người đang nắm giữ vai trò quản trị, quản lý, điều hành đất nước một cách sáng
tạo và hiệu quả trong các lĩnh vực, như khoa học, văn học và nghệ thuật, nhất là
lĩnh vực chính trị với tư cách là văn hố chính trị; nghĩa là, chính trị phải dựa
trên nền tảng văn hố.
Trong thời đại hiện nay, chính trị dựa trên nền tảng văn hóa sẽ là một sự
bảo đảm, một động lực thúc đẩy việc xây dựng xã hội ổn định, dân chủ, tự do,
công bằng, nhân văn và phát triển bền vững. Xét trong tổng thể, văn hố chính
trị, văn hóa cơng vụ, văn hóa đạo đức và nền tảng văn hố nói chung bao giờ
cũng là động lực tạo nên sức mạnh, khẳng định sự chính danh của một đảng
chính trị đang lãnh đạo và cầm quyền, của một chế độ của dân, do dân, vì dân và
bảo đảm cho sự vững bền của chế độ đó. Giá trị của nguồn lực văn hố chính trị
25


×