Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC VÀ TIÊU CỰC MÀ ĐỘC QUYỀN MANG LẠI VỚI NỀN KINH TẾ LIÊN HỆ THỰC TIỄN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.45 KB, 15 trang )

1
H.

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Học phần: Kinh tế Chính trị

ĐỀ TÀI: Tác động tích cực và tiêu cực mà
độc quyền mang lại với nền kinh tế. liên hệ thực tiễn Việt Nam

Giảng viên hướng dẫn : KKĐào Mạnh Dũng
.............................................................................................................
Sinh viên thực hiện
: KKKKKLê Thị Linh
.............................................................................................................
Lớp
: ...............K23QTDNB
.............................................................................................................
Mã sinh viên
: ...............23A4030197
.............................................................................................................

Hà nội, ngày 15 tháng 06 năm 2021

1


2
Mục lục
Mở đầu


1-Tính cấp thiết của đề tài……………………………………………………………3
2-Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu…………………………………………………3
3-Đối tượng và phạm vi nghiên cứu…………………………………………………3
4-Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu………………………………………..3
5-Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài…………………………………………….3
Nội dung
Chương 1: lý luận của Lê nin về độc quyền trong nền kinh tế thị trường…………..4
1.1-Khái niệm độc quyền…………………………………………………………...4
1.2-Nguyên nhân hình thành độc quyền…………………………………………….4
1.3-Lợi nhuận độc quyền……………………………………………………………5
1.4-Gía cả độc quyền………………………………………………………………..6
Chương 2: Tác động tích cực của độc quyền tới kinh tế……………………………6
Chương 3: Tác động tieu cực của độc quyền tới kinh tế……………………………8
3.1- Tác động tieu cực của độc quyền tới kinh tế…………………………………..10
3.2-Một số biện pháp kiểm soát độc quyền…………………………………………10
Chương 4: Thực tiễn Việt Nam…………………………………………………….11
4.1-: Thực tiễn Việt Nam……………………………………………………………11
4.2-Một số giải pháp đối với Việt Nam……………………………………………..13
Kết luận…………………………………………………………………………….14
Tài liệu tham khảo………………………………………………………………...15

2


3
Lời mở đầu
1-Tính cấp thiết của đề tài
Độc quyền trong kinh doanh dù hình thành và tồn tại bằng cách nào cũng đều gây
hậu quả tiêu cực cho nền kinh tế. Độc quyền trong kinh doanh dẫn đến hình thành giá cả
độc quyền, giá cả lũng đoạn ảnh hưởng đến lợi ích của người tiêu dùng. Ở hầu hết các

nước đều tồn tại các loại độc quyền tự nhiên, độc quyền nhà nước. Ở nước ta, với xuất
phát điểm thấp và một số đặc điểm nội tại của nền kinh tế- xã hội nên vẫn còn một số
ngành và lĩnh vực tồn tại độc quyền nhà nước. Tuy nhiên nhà nước cũng đang dần hoàn
thiện các cơ chế pháp luật để kiểm soát nhằm hạn chế hiện tượng cửa quyền, lũng đoạn,
lạm dụng vị trí độc quyền để tránh gây hậu quả xấu cho xã hội. Mặc dù nhà nước ta thừa
nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế và khẳng định quyền bình đẳng giữa các thành
phần kinh tế trước pháp luật nhưng khi thực hiện, nhiều cơ quan nhà nước đã không thực
sự tuân thủ quy định nầy. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về độc quyền ta sẽ tìm hiểu thực
hư của vấn đề độc quyền ở Việt Nam hiện nay như thế nào và liệu xem chúng ta có biện
pháp tích cực nào sắp tới hay khơng
2-Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Nền kinh tế thị trường nước ta mới phát triển, do đó, trong nhận thức cũng như thực
tiễn, một số hiện tượng của nền kinh tế thị trường còn được hiểu khác nhau và thậm chí
chưa phù hợp với thơng lệ quốc tế, trong đó có khái niệm độc quyền. Để góp phần nhận
thức đúng vấn đề, bài viết nêu lên những nét cơ bản xung quanh khái niệm độc quyền,
thực trạng độc quyền và nêu ra một số giải pháp xử lý vấn đề độc quyền trong tình hình
hiện nay ở nước ta.
3-Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu là những tác động của độc
quyền tới kinh tế và cũng như là tình trạng độc quyền ở nước ta hiện nay, những
mặt tích cực và hạn chế của độc quyền và một số giải pháp của nhà nước.
Phạm vi nghiên cứu: Quá trình sản xuất kinh doanh, phân phối cũng như
điều hành .
4-Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu, đề tài sử dụng phương páp luận biện chứng duy vật với
các phương pháp như thống nhất logic và lịch sử, phân tích, tổng hơp, khái qt hóa và
hệ thống hóa
5-Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

3



4
Đề tài tác động tích cực và tiêu cực của độc quyền tới kinh tế giúp chúng ta có cái
nhìn rõ ràng hơn về độc quyền và các tác động của nó tới nền kinh tế. Và nhận thức rõ về
tình trạng độc quyền tại Việt Nam hiện nay từ đó đưa ra những giải pháp, bước đi phù
hợp.
Nội dung
Chương 1: Lý luận của Lê nin về độc quyền trong nền kinh tế thị trường
1.1-khái niệm độc quyền:
Độc quyền là sự liên minh giữa các doanh nghiệp lớn, nắm trong tay phần lớn việc
sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hóa, có khả năng đinh giá cả độc quyền, nhằm thu
lợi nhuận độc quyền cao.
Theo P.Samuelson khi bàn về độc quyền, ông đã đưa ra: “Độc quyền là hiện tượng
các hãng cam kết lại, thỏa thuận cùng nhau quy định mức giá và sản phẩm làm ra, chia
nhau thị trường hoặc cùng chia nhau vạch ra các quyết định kinh doanh.”
Độc quyền gòm hai loại: độc quyền tự nhiên và độc quyền thường.
Độc quyên tự nhiên là tình trạng trong đó các yếu tố hàm chứa trong quá trình sản
xuất đã cho phép hãng có thể giảm liên tục chi phí sản xuất khi quy mơ sản xuất mở rộng,
do đó đã dẫn đến cách tổ chức sản xuất hiệu quả nhất là chỉ thông qua một hãng duy nhất.
chẳng hạn như độc quyền trong ngành điện là mọt ví dụ cho hình thức độc quyền.
Độc quyền thường là trạng thái thị trường chỉ có duy nhất một người bán và sản
xuất ra sản phẩm, khơng có loại hàng hóa sản phẩm nào thay thế gần gũi.
Ở dạng thuần tuý nhất, độc quyền thường là trạng thái thị trường chỉ có duy nhất
một người sản xuất và bán ra sản phẩm khơng có loại hàng hố nào thay thế gần gũi. Mặc
dù trên thực tế khơng có độc quyền thuần t, vì các hàng hố nói chung đều ít nhiều có
sản phẩm thay thế, nhưng những gì phân tích cho mơ hình độc quyền này sẽ giúp làm
sáng tỏ tính phi hiệu quả của nó và sự cần thiết của các biện pháp can thiệp của chính
phủ.
1.2: Nguyên nhân hình thành độc quyền

Vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 trong nền kinh tế thị trường các nước tư bản chủ
nghĩa đã xuất hiện các tổ chức độc quyền. Sự xuất hiện các tổ chức độc quyền đánh dấu
chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn phát triển mới-giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc
quyền. Độc quyền xuất hiện do những nguyên nhân chủ yếu sau:
Một là, sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ khoa học kỹ
thuật, đòi hỏi các doanh nghiệp phải ứng dụng những tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất
kinh doanh. Điều đó, địi hỏi các doanh nghiệp phải có vốn lớn mà từng doanh nghiệp
4


5
khó đáp ứng được. Vì vậy, các doanh nghiệp phải đẩy nhanh q trình tích tụ và tập trung
sản xuất, hình thành các doanh nghiệp quy mơ lớn.
Hai là, cuối thế kỷ XIX, những thành tựu khoa học kỹ thuật mới xuất hiện như lị
luyện kim mới; các máy móc mới ra đời, như: động cơ điêzen, máy phát điện; phát triển
những phương tiện vận tải mới, như: xe hơi, tàu thuỷ, xe điện, máy bay, tàu hỏa ...Những
thành tựu khoa học kỹ thuật mới xuất hiện này, một mặt làm xuất hiện những ngành sản
xuất mới đòi hỏi các doanh nghiệp phải có quy mơ lớn; mặt khác thúc đẩy tăng năng suất
lao động, tăng khả năng tích lũy, tích tụ và tập trung sản xuất, thúc đẩy phát triển sản xuất
quy mô lớn.
Ba là, trong điều kiện phát triển của khoa học kỹ thuật, cùng với sự tác động của
các quy luật kinh tế thị trường, như: quy luật giá trị thặng dư, quy luật tích lũy, tích tụ,
tập trung sản xuất ... ngày càng mạnh mẽ, làm biến đổi cơ cấu kinh tế của xã hội theo
hướng tập trung sản xuất quy mô lớn.
Bốn là, cạnh tranh gay gắt làm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ bị phá sản hàng
loạt, còn các doanh nghiệp lớn tồn tại được, nhưng cũng đã bị suy yếu, để tiếp tục phát
triển họ phải tăng cường tích tụ, tập trung sản xuất, liên kết với nhau thành các doanh
nghiệp với quy mô ngày càng to lớn hơn. V.I.Lênin khẳng định: "... tự do cạnh tranh đẻ
ra tập trung sản xuất và sự tập trung tới độc quyền sản xuất này, khi phát triển đến mức
độ nhất định, lại dẫn

Năm là, do cuộc khủng hoảng kinh tế lớn năm 1873 trong toàn bộ thế giới tư bản
chủ nghĩa làm phá sản hàng loạt các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp lớn tồn
tại, nhưng để tiếp tục phát triển được, họ phải thúc đẩy nhanh q trình tích tụ và tập trung
sản suất hình thành các doanh nghiệp có quy mơ lớn.
Sáu là, sự phát triển của hệ thống tín dụng trở thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy tập
trung sản xuất, nhất là việc hình thành, phát triển các công ty cổ phần, tạo tiền đề cho sự
ra đời của các tổ chức độc quyền. Khi các tổ chức độc quyền xuất hiện các tổ chức độc
quyền có thể ấn định giá cả độc quyền mua, độc quyền bán để thu lợi nhuận độc quyền
cao.
1.3: Lợi nhuận độc quyền:
Lợi nhuận độc quyền là lợi nhuận thu được cao hơn lợi nhuận bình quân, do sự
thống trị của các tổ chức độc quyền đem lại. Các tổ chức độc quyền thống trị bằng cách
khống chế (áp đặt) giá bán hàng hóa cao và giá mua hàng hóa thấp, do đó các tổ chức độc
quyền luôn thu được lợi nhuận độc quyền cao.
Nguồn gốc của lợi nhuận độc quyền cao là lao động không công của công nhân
làm việc trong các xí nghiệp độc quyền; một phần lao động khơng cơng của công nhân
5


6
làm việc trong các xí nghiệp ngồi độc quyền; một phần giá trị thặng dư của các nhà tư
bản vừa và nhỏ bị mất đi do thua thiệt trong cuộc cạnh tranh, phần lao động thặng dư và
đôi khi cả một phần lao động tất yếu của những người sản xuất nhỏ, nhân dân lao động ở
các nước tư bản và các nước thuộc địa và phụ thuộc.
Đến giai đoạn này, nguồn gốc lợi nhuận độc quyền không chỉ là bóc lột cơng nhân
của chính trong các tổ chức độc quyền mà nó cịn bóc lột các cơng nhân ở ngồi tổ chức
độc quyền, thậm chí là ở nước ngồi. Phạm vi bóc lột của nó rộng lớn nên thu được những
khoản lợi nhuận khổng lồ
1.4: Gía cả độc quyền:
Giá cả độc quyền là giá cả do các tổ chức độc quyền áp đặt trong mua và bán hàng

hóa. Giá cả độc quyền gồm chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận độc quyền. Do chiếm
được vị trí độc quyền về sản xuất và tiêu thụ hàng hóa nên các tổ chức độc quyền áp đặt
được giá cả độc quyền.
Các tổ chức độc quyền luôn áp đặt giá cả cao khi bán và giá cả thấp khi mua. Như
vậy, giá cả độc quyền gồm có giá cả độc quyền cao (khi bán) và giá cả độc quyền thấp
(khi mua).
Về thực chất, giá cả độc quyền vẫn khơng thốt ly và khơng phủ định cơ sở của nó
là giá trị. Trong mối quan hệ này thì giá trị vẫn là cơ sở, là nội dung bên trong giá cả độc
quyền. Giá cả độc quyền chỉ lên xuống xoay quanh giá trị hàng hóa và khi xuất hiện giá
cả độc quyền thì giá cả thị trường lên xuống xoay quanh giá cả độc quyền.
Nếu trong giai đoạn cạnh tranh tự do của nền kinh tế thị trưởng tư bản chủ nghĩa
các doanh nghiệp tư bản ln mua và bán hàng hóa xoayquanh giả cả sản xuất, do đó họ
ln thu được lợi nhuận bình quân, thì trong giai đoạn độc quyền các tổ chức độc quyền
ln mua và bán hàng hóa xoay quanh giả cả độc quyền, do đó họ ln thu được lợi nhuận
độc quyền cao.
Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, hai quy luật kinh tế cơ bản của chủ
nghĩa tư bản là quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư vẫn hoạt động nhưng biểu hiện
ra bên ngồi dưới một hình thức khác: quy luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả độc
quyền, quy luật giá trị thặng dư biểu hiện thành quy luật lợi nhuận độc quyền, quy luật
Chương 2: Tác động tích cực của độc quyền tới kinh tế
Độc quyền tạo ra khả năng to lớn trong việc nghiên cứu và triển khai các hoạt động
khoa học kỹ thuật, thúc đẩy sự tiến bộ kỹ thuật. Độc quyền là kết quả của q trình tích
tụ, tập trung sản xuất ở mức độ cao. Do đó, các tổ chức độc quyền có khả năng tập trung
6


7
được các nguồn lục, đặc biệt là nguồn lực về tài chính trong việc nghiên cứu và triển khai
các hoạt động khoa học kỹ thuật, thúc đẩy sự tiến bộ kỹ thuật. Tuy nhiên, đây chỉ là khả
năng, còn khả năng có trở thành hiện thực hay khơng cịn phụ thuộc và nhiều yếu tố, nhất

là phụ thuộc vào mục đích kinh tế của các tổ chức độc quyền trong nền kinh tế thị trưởng
Độc quyền có thể làm tăng năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh của
bản thân tổ chức độc quyền. Là kết quả của tập trung sản xuất và sự liên minh rằn doanh
nghiệp lớn, độc quyền tạo ra được ưu thế về vốn trong việc ứn tựu kỹ thuật, công nghệ
sản xuất mới, hiện đại, áp dụng 82/186 sản xuất tiên tiến, làm tăng năng suất lao động,
giảm chi pu sau xuat, do đó nâng cao được năng lực cạnh tranh trong hoạt động sản xuất
kinh doanh. Tính độc quyền lại mang tính thúc đẩy doanh nghiệp, nó đc coi như chìa khóa
để phát triển, dù ở phương diện nào thì thay đổi để tốt hơn ln phù hợp với mọi thời
điểm. Ví dụ như apple họ cho ra công nghệ cảm ứng điện dung ở ip 2G mở đầu mới cho
ngành công nghệ smartphone, lúc đó họ chiếm độc quyền và bán được hàng trong nước
và ra ngoài biên giới, thu lại lợi nhận từ bên ngồi ln là nguồn thu lời tốt nhất.
Độc quyền tạo được sức mạnh kinh tế góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển
theo hướng sản xuất lớn hiện đại. Với ưu thế tập trung được sức mạnh kinh tế to lớn vào
trong tay mình, nhất là sức mạnh về tài chính, tạo cho độc quyền có điều kiện đầu tư vào
các lĩnh vực kinh tế trọng tâm, mũi nhọn, do đó thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển
theo hướng sản xuất tập trung, quy mô lớn, hiện đại. VILênin viết: “Nhưng trước mắt
chúng ta cạnh tranh tự do biến thành độc quyền và tao tnền sản xuất lớn, loại bỏ nền sản
xuất nhỏ, thay thế nền sản xuất lớn bằng một nền sản xuất lớn hơn nữa.
Độc quyền giúp khai thác kinh tế theo quy mô hơn, nếu công ty khai thác sức mạnh
độc quyền và phát triển lớn, nó cũng có thể khai thác các nền kinh tế quy mô lớn. Điều
này có nghĩa là nó có thể sản xuất với chi phí thấp và chuyển những khoản tiết kiệm này
sang cho người tiêu dùng. Tuy nhiên, sẽ có rất ít động lực để làm những điều này và
khoản tiết kiệm đã tạo ra có thể được sử dụng để tăng lợi nhuận hoặc tăng các rào cản gia
nhập cho các đối thủ trong tương lai.
Độc quyền cũng giúp tạo được năng suất cao hơn trong việc tạo ra các sản phẩm,
các nhà độc quyền cũng có thể có được sự năng động hiệu quả một khi được bảo vệ khỏi
các nhà độc quyền cạnh tranh khác có thể thực hiện đổi mới sản phẩm hoặc xử lý để thu
được lợi nhuận cao hơn, và nhờ đó trở nên năng động hiệu quả. Có thể lập luận rằng chỉ
những doanh nghiệp có sức mạnh độc quyền mới có thể đổi mới một cách hiệu quả. Do
các rào cản gia nhập, một nhà độc quyền có thể bảo vệ các phát minh và sáng tạo của

mình khỏi hành vi trộm cắp hoặc sao chép.

7


8
Việc tránh sự trùng lặp cơ sở hạ tầng, lãng phí của các nguồn lực khan hiếm - nếu
nhà độc quyền là một cơng ty độc quyền tự nhiên, có thể lập luận rằng nguồn cung cạnh
tranh sẽ bị lãng phí. Thị trường độc quyền tự nhiên bao gồm cung cấp khí đốt, đường sắt
và điện. Một sự độc quyền tự nhiên xảy ra khi tất cả hoặc hầu hết các nền kinh tế có quy
mơ được bắt nguồn bởi một công ty - điều này ngăn cản các công ty khác tham gia vào
thị trường. Nhưng có nhiều hơn một cơng ty sẽ có nghĩa là sẽ có sự trùng lặp lãng phí tài
nguyên khan hiếm.
Các nhà độc quyền cũng có thể tạo ra doanh thu xuất khẩu cho một nền kinh tế
quốc gia. Một công ty duy nhất có thể đạt được từ các nền kinh tế có quy mơ trong nền
kinh tế nội địa của riêng mình và phát triển lợi thế chi phí mà nó có thể khai thác và bán
tương đối rẻ ở nước ngoài.
Chương 3: Tác động tiêu cực của độc quyền tới nền kinh tế
3.1-Tác động tiêu cực của độc quyền tới nền kinh tế
Một công ty hoặc doanh nghiệp khi độc quyền họ có khả năng thao túng giá cả thị
trường bằng cách kiểm sốt số lượng hàng hóa sản xuất ra nhằm thu lại lợi nhuận cho họ.
Về mặt lý thuyết, điều này sẽ không xảy ra trong nền kinh tế cạnh tranh bởi vì cùng một
sản phẩm sẽ có nhiều cơng ty tham gia sản xuất điều đó dẫn đến áp lực làm cho một doanh
nghiệp nào đó khơng thể độc quyền, nhưng vẫn còn một số lý do khiến cho cơng ty có
thể độc quyền, khi đó sẽ có một số tác động tiêu cực như:
Độc quyền có lợi khi nó bảo đảm sản phẩm hoặc hàng hóa được sản xuất ra là kiên
định và không bị đứt quãng hoặc sản phẩm hàng hóa muốn sản xuất được cần có khoản
đầu tư là rất rất lớn. Ví dụ: Các sản phẩm như điện, nước muốn tạo ra cần rất nhiều tiền
để đầu tư.
Nếu chi phí sản xuất giảm khi quy mô kinh doanh tăng lên và sản lượng được sản

xuất với khối lượng lớn hơn, các công ty hiện tại sẽ phát triển hơn và có lợi thế hơn về
chi phí so với những cơng ty có tiềm năng khác - điều này sẽ ngăn cản những công ty mới
tham gia. Các công ty là những người tham gia sớm vào thị trường có thể làm hạn chế
các nguồn lực khan hiếm hiện có gây khó khăn cho những công ty mới tham gia khai thác
các tài nguyên này. Đây thường là trường hợp độc quyền tự nhiên, chúng sở hữu các cơ
sở hạ tầng. Chẳng hạn như British Telecom, nó sở hữu mạng lưới cáp khiến các hãng mới
khó gia nhập thị trường.
Chi phí chìm là những chi phí khơng thể thu hồi nếu cơng ty ngừng hoạt động,
chẳng hạn như chi phí quảng cáo - chi phí chìm càng lớn thì rào cản càng lớn. Chi tiêu
lớn cho quảng cáo của các cơng ty hiện nay có thể ngăn cản sự gia nhập vì để cạnh tranh
hiệu quả, các công ty sẽ phải cố gắng để phù hợp với chi tiêu của công ty đương nhiệm.
8


9
Nếu một nhà sản xuất bia sở hữu một chuỗi các quán bia thì việc sản xuất bia mới
vào thị trường sẽ khó khăn hơn vì có ít qn bia hơn để bán bia của họ. ví dụ như Grab
và Uber xác nhập lại sẽ thao túng được thị trường đi xe thông quá các app ở các thành
phố lớn, giảm cạnh tranh giữa 2 bên, thì họ sẽ giảm ưu đãi, rất thiệt cho người dùng, và
trường hợp như vậy cũng đã xảy ra ở Trung Quốc. Việc sát nhập dọc như thế cũng sẽ gây
tới hâu quả không lường mà đọc quyền gây ra.
Các hợp đồng độc quyền và kế hoạch khiến khách hàng trở nên trung thành với
thương hiệu, điều này sẽ khiến những người mới khó giành được thị phần( chẳng hạn như
Sony). Rõ ràng, người tiêu dùng có ít sự lựa chọn hơn nếu nguồn cung được kiểm sốt
bởi một nhà độc quyền - ví dụ, Bưu điện từng là nhà cung cấp độc quyền các dịch vụ thu
thập và chuyển phát thư trên khắp Vương quốc Anh và người tiêu dùng khơng có dịch vụ
chuyển và nhận thư nào thay thế.
Các nhà độc quyền có thể tận dụng vị thế của họ và tính giá cao, bởi vì người tiêu
dùng khơng có lựa chọn nào khác. Điều này đặc biệt có vấn đề nếu sản phẩm đáp ứng các
nhu cầu cơ bản, ví dụ như nước. Các nhà độc quyền cũng có thể hạn chế sản lượng trên

thị trường để khai thác vị thế thống trị của mình trong một khoảng thời gian hoặc để tăng
giá.
Việc tăng giá hoặc giảm sản lượng sẽ dẫn đến mất thặng dư tiêu dùng. Thặng dư
của người tiêu dùng là lợi ích cá nhân rịng tăng thêm mà người tiêu dùng có được khi
mức giá họ phải trả thấp hơn mức họ chuẩn bị để trả. Theo thời gian, các nhà độc quyền
có thể giành được quyền lực đối với người tiêu dùng, điều này dẫn đến sự hao hụt về
quyền sở hữu của người tiêu dùng.
Thông tin bất cân xứng - các nhà độc quyền có thể biết nhiều hơn người tiêu dùng
và có thể khai thác kiến thức này thành lợi thế của mình.
Độc quyền có thể khơng hiệu quả về mặt năng suất vì khơng có đối thủ cạnh tranh
trực tiếp, nhà độc quyền khơng có động lực để giảm chi phí trung bình đến mức tối thiểu,
kết quả là họ có khả năng sẽ sản xuất kém hiệu quả.
Độc quyền cũng có thể được phân bổ một cách không hiệu quả - điều này không
cần thiết với các nhà độc quyền để đặt giá bằng với chi phí biên của nguồn cung. Trong
thị trường cạnh tranh, các công ty buộc phải tham khảo giá từ trong ngành của họ, nhưng
một nhà độc quyền có thể tự đặt ra giá của mình. Người tiêu dùng khơng thể so sánh giá
cho một nhà độc quyền vì khơng có nhà cung cấp nào gần giống khác. Điều này có nghĩa
là giá có thể được đặt cao hơn chi phí cận biên.
Độc quyền gây lỗ phúc lợi rịng, ngay cả việc hoạch toán các khoản lợi nhuận thêm
từ một nhà độc quyền, có thể được đưa trở lại nền kinh tế khi lợi nhuận được chia cho các
9


10
cổ đơng, có một khoản lỗ phúc lợi rịng cho cộng đồng. Mất phúc lợi là mất lợi ích cộng
đồng, điều này xảy ra khi thị trường được cung cấp bởi một nhà độc quyền thay vì một
số lượng lớn các công ty cạnh tranh về mặt thặng dư của người tiêu dùng và nhà sản xuất.
Một khoản lỗ phúc lợi ròng đề cập đến bất kỳ khoản phúc lợi nào ít hơn các khoản phúc
lợi bị lỗ do kết quả của một giao dịch kinh tế hoặc sự can thiệp của chính phủ. Sử dụng
phân tích phúc lợi cho phép nhà kinh tế đánh giá được tác động của độc quyền.


Độc quyền sẽ làm cho các nguồn nhân lực có ít việc làm hơn, các nhà độc quyền
có thể sử dụng ít người hơn so với các thị trường cạnh tranh. Việc làm chủ yếu được quyết
định bởi đầu ra - cơng ty sản xuất càng nhiều thì càng cần nhiều lao động. Khi sản lượng
của các nhà độc quyền ít hơn, nó cũng có thể được cho rằng việc làm cũng sẽ ít hơn.
Theo Adam Smith, quan điểm chung về độc quyền là họ có xu hướng tìm cách tăng
lợi nhuận bằng chi phí của người tiêu dùng, làm như vậy sẽ tạo ra nhiều chi phí cho xã
hội hơn là lợi ích.
3.2- Một số biện pháp kiểm sốt độc quyền
Nếu một nhà độc quyền có thể giành được chỗ đứng trên thị trường, điều đó trở
nên rất khó khăn cho các cơng ty mới tham gia, với kết quả là cơ chế giá bị hạn chế thực
hiện chức năng của mình. Tài ngun khơng thể được phân bổ đến nơi cần thiết nhất bởi
vì nhà độc quyền có thể dựng lên các rào cản cho các cơng ty khác. Những rào cản này
10


11
sẽ khơng tự nhiên hạ xuống được. Chính phủ có thể thực hiện một số biện pháp sau để
cái thiện hơn các mặt tiêu cực đó như:
Thi hành các chính sách hành chính nhà nước: chính phủ ban hành các văn bản
pháp luật nhằm ngăn ngừa một số hành vi xấu như các doanh nghiệp cấu kết với nhau để
nâng giá hay hạn chế một số cơ cấu thị trường nhất định có hại đến nền kinh tế của một
đất nước. Các nước có thị trường phát triển thường dùng biện pháp này để điều tiết những
doanh nghiệp lớn, chiếm thị phần rất cao trong khoảng thời gian dài. Phán quyết của tịa
án Mỹ năm 1911 buộc nhóm cơng ty Standard Oil phải tách ra thành 34 công ty độc lập
là ví dụ điển hình.
Khuyến khích các cơng ty phát triển nhờ những chính sách của chính phủ: chính
phủ thi hành các chính sách khuyến khích doanh nghiệp phát triển đồng thời phá bỏ những
rào cản để các doanh nghiệp mới dễ đầu tư cho quá trình phát triển.
Giám sát một cách chặt chẽ: chính phủ có thể đề ra các quy định cưỡng chế doanh

nghiệp phải thực thi trong lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp ấy. Đây là biện pháp phổ
biến để kiểm sốt các cơng ty thuộc sở hữu nhà nước trong một nền kinh tế mới và đang
phát triển.
Kiểm sốt tài khoản: chính phủ quy định phù hợp với những điều kiện của doanh
nghiệp để doanh nghiệp bán sản phẩm đạt được mức doanh thu hiệu quả. Tuy nhiên biện
pháp này có một khó khăn cơ bản là chính phủ rất khó xác định mức giá chung của nền
kinh tế và dễ dẫn đến một sự lạm phát hay giảm phát không tốt cho nền kinh tế.
Mời gọi đầu tư từ nước ngoài làm cho nền kinh tế thị trường trở nên đa dạng hơn,
nâng cao tính cạnh tranh cho những doanh nghiệp trong nước duy trì một nền kinh tế ổn
định và phát triển trong tương lai.
Chương 4: Thực tiễn Việt Nam
4.1-Thực tiễn Việt Nam
Thực trạng hiện nay: Sự độc quyền nhà nước bị biến tướng thành độc quyền doanh
nghiệp. Tâm lý ỷ nại trông chờ vào sự bao cấp, bảo hộ bù lỗ của Nhà nước mà không tăng
cường đầu tư trang thiết bị cơ sở vật chất và đổi mới phương pháp làm việc. Cạnh tranh
với các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài nhất là trong giai đoạn đổi mới, mở cửa
thị trường và gia nhập WTO.
Ở nước ta hiện nay đang tồn tại khá nhiều ngành nghề, lĩnh vực chịu sự độc quyền
của nhà nước. Các doanh nghiệp này kinh doanh theo mơ hình khép kín vừa thực hiện
các khâu cuối. Nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới,
chính vì vậy chúng ta cần có những thay đổi trong cơng tác quản lý cũng như điều hành
kinh tế, tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp phát triển một cách
thuận lợi hơn. Tuy nhiên hiện nay chúng ta vẫn ưu ái cho một số các ngành nghề đã dẫn
tới việc độc quyền tạo ra những tổn thất không nhỏ cho xã hội. Chính sự độc quyền này
11


12
góp phần khơng nhỏ trong việc làm chậm q trình tăng trường cũng như phát triển của
Việt Nam

Các ngành độc quyền có ảnh hưởng lớn đến kinh tế Việt Nam như: điện, nước,
xăng, viễn thông. Mỗi lần tăng giả các ngành đều trình bày khó khăn riêng của mình và
một câu nghe khá quen : "So với nước ngồi thì tăng như vậy là hợp lý" Nhưng ở mỗi
người chúng ta đều cảm nhận được từ các ngành trên có khó khăn hay lỗ thật khơng, hay
đó là mặt trái của sự độc quyền và thử hỏi thu nhập trung bình của người Việt Nam = 1/5,
các nước khác khơng mà lại mang phân tích rằng nước ngồi tăng 1 USD thì nước ta tăng
10 nghìn VND là rẻ hơn các nước khác rồi? Vậy chỉ khổ cho người dân có thu nhập thấp
và đổi tượng cịn nhỏ phá nhở vào đồng lương của cha me tạo ra nhiều hệ luỵ tiêu cực
trong tương lai
Bộ Công Thương cho răng dự thảo Nghị định và Danh mục được xây dụng với
quan điểm chủ đạo là không mở rộng và không tăng thêm các lĩnh vực độc quyền nhà
nước, đồng thời phù hợp với các cam kết quốc tế hiện hành của Việt Nam. Bộ cho hay
khi xây dựng dự thảo đã phối hợp với các Bộ, ngành và sốt lại tồn bộ hệ thống pháp
luật hiện hành để xác định các loại hàng hóa dịch vụ sẽ được quy định tại Danh mục.
Trong đó có Luật An ninh, Luật Quốc phịng, Luật Điện lực, Luật Bưu chính, Luật Dự
trữ quốc gia... Nghị định về quản lý hoạt động kinh doanh vàng, về kinh doanh xổ số...
Dựa trên kết quả rà soát và ý kiến các bộ ngành Danh mục đã được xây dụng bổ
sung từ 19 ngành nghề lên thành 20 ngành nghề. Tồn bộ các loại hàng hóa, dịch vụ được
liệt kê tại Danh mục đều là các loại hàng hóa, dịch vụ hiện đang áp dụng độc quyền nhà
nước, phù hợp với nguyên tắc quy định tại khoản 1 điều 4 dự thảo Nghị định là giới hạn
phạm vi thực hiện độc quyền nhà nước chỉ trong các lĩnh vực, địa bàn thiết yếu mà nhà
nước cần phải giữ độc quyền liên quan đến an ninh - quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích
cơng cộng hoặc các thành phần kinh tế khác khơng muốn hay khơng có khả năng tham
gia.
“Danh mục không mở rộng và cũng không tăng thêm các lĩnh vực độc quyền nhà
nước", Bộ Công Thương khẳng định Nói về khả năng điều chỉnh giảm số lượng ngành
nghề độc quyền nhà nước tại Danh mục Bộ Công Thương cho rằng: Độc quyền nhà nước
đối với các loại hàng hóa, dịch vụ chi giới hạn trong một hoặc một số hoạt động thương
mại cụ thể, chứ không phải với tất cả các hoạt động thương mại có liên quan tới hàng hóa,
dịch vụ. Đối với ngành điện, nhà nước sẽ độc quyền vận hành thủy điện đa mục. Với các

loại hàng hóa khác nhà nước sẽ độc quyền xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu và sản xuất
vàng miếng nhập khẩu thuốc lá, kinh doanh xổ số kiến thiết đo đạc bản đồ phục vụ quốc
phòng.
Viêc pháp luật quy định nhà nước nắm độc quyền đối với các “ phương tiện thiết
yếu” như đường trục viễn thông quốc gia, hệ thống dây tải điện hay các nhà ga sân bay,
hệ thống đường sắt nhưng khơng có sự tách biệt rõ ràng các yếu tố thuộc về cạnh tranh
tiềm năng và các yếu tố thuộc về độc quyền tự nhiên đã làm cho độc quyền nhà nước biến
thành độc quyền doanh nghiệp. Qua đó cho thấy rằng: những quy định này là không phù
hợp với các quy luật của nền kinh tế thị trường và cần phải được thay đổi trong thời gian
tới. Khơng những thế, một số chính sách kinh tế thời gian qua cũng là nguyên nhân tạo
ra độc quyền trong nền kinh tế nước ta. Điển hình là chính sách thành lập các tổng cơng
ty đã tạo ra sự độc quyền của một vài doanh nghiệp nhà nước trong các lĩnh vực như xây
12


13
dựng, xi măng, lắp máy... Để thành lập các tổng cơng ty này, một loạt các cơng ty nhỏ có
cùng tính chất ngành nghề được sáp nhập theo quyết định của Chính phủ. Hơn nữa, nhà
nước cũng đầu tư một lượng vốn lớn vào các tổng công ty. Kết quả là các cơng ty có một
sức mạnh thị trường đáng kể trong ngành nghề mà nó kinh doanh và nhanh chóng có vị
trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực đó, khơng một doanh nghiệp nào có thể cạnh tranh
với các tổng cơng ty nhà nước. Hiện nay, Chính phủ chủ trương thành lập một số tập đoàn
kinh tế nhất định. Việc xây dựng các tập đoàn kinh tế là quan trọng bởi vì xét về mức độ
tập trung vốn và công nghệ, hầu hết các doanh nghiệp của Việt Nam đều rất nhỏ bé so
với các công ty nước ngoài, đặc biệt là các tập đoàn đa quốc gia. Trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế, hợp tác đi cùng với cạnh tranh là điều không thể tránh khỏi. Để có thể
tham gia và cạnh tranh trên thị trường toàn cầu, Việt Nam rất cần thiết phải thành lập các
tập đoàn kinh tế đủ mạnh trong những lĩnh vực nhất định. Theo Viện nghiên cứu quản lý
kinh tế trung ương (CIEM), trước hết, sẽ có 4 tập đồn kinh tế được thành lập trong các
lĩnh vực điện, ga và khí đốt, viễn thơng và xây dựng. Theo chính sách này, các tập đoàn

kinh tế được thành lập dựa trên việc sáp nhập các công ty nhỏ thành công ty lớn hơn. Về
mặt lý thuyết cũng như thực tế của luật cạnh tranh, việc sáp nhập chỉ bị cấm trong trường
hợp làm giảm đáng kể cạnh tranh hoặc đi ngược lại với lợi ích cơng cộng, liên quan đến
các vấn đề như lợi ích khách hàng, giải quyết việc làm và tăng trưởng xuất khẩu. Ngược
lại, nếu việc sáp nhập mà có nhiều khả năng mang lại hiệu quả kinh tế vượt qua sự hạn
chế cạnh tranh, nó sẽ khơng bị cấm. Trong trường hợp các tập đồn kinh tế của Việt Nam,
việc tránh xung đột giữa độc quyền là kết quả của sáp nhập và lợi ích cơng cộng là rất
cần thiết. Khi các tập đoàn kinh tế được thành lập bởi Chính phủ thì sẽ rất dễ dàng cho
các doanh nghiệp này có được vị trí thống lĩnh thị trường và sức mạnh thị trường đáng kể
so với các doanh nghiệp khác. Chính vì thế, nếu khơng có những quy định cụ thể chính
sách này có thể tạo ra vị trí độc quyền cho các tập đồn kinh tế. Thêm vào đó, do hình
thức sở hữu mà một số chính sách của nhà nước cũng có ưu đãi hơn cho các doanh nghiệp
nhà nước. Vì vậy, doanh nghiệp nhà nước được hưởng một số lợi thế khi tiến hành hoạt
động kinh doanh trên thị trường so với các thành phần kinh tế khác. Cụ thể là, trong một
số trường hợp nhất định, nhà nước trực tiếp hoặc gián tiếp bảo đảm cho các khoản nợ của
doanh nghiệp, ưu đãi về quyền sử dụng đất, miễn thuế trong một số trường hợp, được chỉ
định ngân hàng cho vay vốn hoặc được vay vốn với lãi suất ưu đãi. Vì thế, có thể nói
rằng: ở một chừng mực nhất định, chính sách kinh tế đã trở thành rào cản tạo ra độc quyền
trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
4.2-Một số giải pháp đối với Việt Nam
Chính phủ có thể sử dụng một số biện pháp như:
- Ban hành luật pháp và chính sách chống độc quyền: Biện pháp chủ yếu để đấu
tranh với các nguy cơ xuất hiện hành vi độc quyền trên thị trường là sử dụng các chính
sách chống độc quyền. Đó là điều luật nhằm ngăn cấm những hành vi nhất định (như cấm
các hãng cấu kết để cùng nhau nâng giá), hoặc hạn chế một số cơ cấu thị trường nhất
định. Biện pháp này thường được sử dụng phổ biến ở các nước có thị trường phát triển,
nhằm điều tiết những hãng lớn, chiếm một thị phần rất lớn.

13



14
- Sở hữu nhà nước đối với độc quyền cũng là một giải pháp thường được áp dụng
với những ngành trọng điểm quốc gia như khí đốt, điện năng… Trong nhiều trường hợp,
vẫn còn sự tranh cãi lớn giữa các nhà kinh tế là chính phủ nên sở hữu hay chỉ cần có qui
định điều tiết những ngành này là đủ.
- Kiểm soát giá cả đối với các hàng hoá và dịch vụ do hãng độc quyền cung cấp là
một giải pháp phổ biến khác. Mục đích của nó là buộc hãng độc quyền phải bán sản phẩm
ở mức giá cạnh tranh.
Kết luận
Đối với Việt Nam, thực trạng hiện nay cho thấy môi trường độc quyền và chống
độc quyền ở nước ta còn nhiều hạn chế, còn tồn tại nhiều điều cần tháo gỡ. Đối với chúng
ta còn nhiều việc phải làm để có một mơi trường phát triển kinh tế lành mạnh , nhưng
trước mắt việc phải làm là Việt Nam cần có một chính sách hợp lý, cần phải có pháp luật
về độc quyền mạnh hơn, sâu sắc hơn. Độc quyền trong nền kinh tế thị trường là một con
dao hai lưỡi, nó có giúp nền kinh tế phát triển hay khơng cịn tùy thuộc vào sự vận dụng
quy luật mỗi nước. nếu có chính sách hợp lý thì sẽ có rất nhiều mặt tích cực, ngược lại,
thì nó sẽ là một cỗ máy nghiền nát nền kinh tế.
Tài liệu tham khảo
Tài liệu tiếng việt
Giáo trình kinh tế chính trị
Tài liệu trực tuyến
truy cập lúc 10h 07/6/2021
/>h_t%E1%BA%BF)#T%E1%BB%95n_th%E1%BA%A5t_ph%C3%BAc_l%E1%BB%
A3i_x%C3%A3_h%E1%BB%99i truy cập lúc 8h 09/6/2021
/>truy cập lúc 10h30 12/06/2021
truy cập lúc 11h
13/06/2021
truy cập lúc 11h30 13/06/2021
truy

cập lúc 20h 13/06/2021
14


15
truy cập lúc 24h 13/06/2021

15



×