Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp từ thực tiễn của cơ quan điều tra viện kiểm sát nhân dân tối cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 120 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

ĐINH CƠNG VĂN

BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ GIÁC VỀ TỘI PHẠM XÂM PHẠM
HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP – TỪ THỰC TIỄN CỦA CƠ QUAN
ĐIỀU TRA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI – 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

ĐINH CƠNG VĂN

BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ GIÁC VỀ TỘI PHẠM XÂM PHẠM
HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP – TỪ THỰC TIỄN CỦA CƠ QUAN
ĐIỀU TRA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

LUẬN VĂN THẠC SĨ


LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Mã số: 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. MAI ĐẮC BIÊN

HÀ NỘI – 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các số
liệu và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Kết
quả nghiên cứu nêu trong Luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ cơng
trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Đinh Cơng Văn


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT


: Cơ quan điều tra

ĐTV

: Điều tra viên

KSV

: Kiểm sát viên

HĐTP

: Hoạt động tư pháp

TTHS

: Tố tụng hình sự

VKS

: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .......................................................................... 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 5
3.1. Đối tượng nghiên cứu................................................................................. 5
3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài ................................................................... 5
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ............................................................. 6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................... 6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ..................................................... 7
7. Kết cấu của luận văn ..................................................................................... 8
PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................... 9
CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ ĐẢM BẢO QUYỀN TỐ GIÁC VỀ
TỘI PHẠM XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP ....................................... 9
1.1. Quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp ......................... 9
1.1.1.Tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp .................................................. 9
1.1.2.Quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp ..................... 13
1.2. Bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp ......... 15
1.2.2. Các yếu tố cấu thành bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt
động tư pháp .................................................................................................... 18
1.2.3. Nội dung bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư
pháp ................................................................................................................. 21
1.2.4. Vài trò, trách nhiệm của Cơ quan điều tra VKSND tối cao trong việc bảo
đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp ....................... 25
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1................................................................................ 41


CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ GIÁC VỀ TỘI PHẠM
XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP Ở CƠ QUAN ĐIỀU TRA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO............................................................... 42
2.1. Khái quát về Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao ............... 42
2.1.1. Đặc điểm chung của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao 43

2.1.2. Đặc thù trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ so với các đơn vị hành
chính khác ....................................................................................................... 44
2.1.3. Đặc thù trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ so với các Cơ quan điều tra
khác ................................................................................................................. 46
2.1.4. Tình hình hoạt động của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối
cao ................................................................................................................... 49
2.2. Phân tích thực trạng bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt
động tư pháp ở Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao .................. 53
2.2.1 Bảo đảm bảo vệ quyền và nghĩa vụ của người tố giác .......................... 53
2.2.2. Cơ quan, người có thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp bảo
vệ ..................................................................................................................... 56
2.2.3. Thực hiện các biện pháp bảo vệ ............................................................. 58
2.2.4. Thực hiện trình tự thủ tục bảo vệ .......................................................... 61
2.2.5. Quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ ................................................... 63
2.2.6. Về hồ sơ bảo vệ ..................................................................................... 65
2.3. Đánh giá chung thực trạng bảo vệ quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt
động tư pháp ở Cơ quan điều tra VKSND tối cao ........................................... 66
2.3.1. Những kết quả đạt được ........................................................................ 66
2.3.2. Những hạn chế, bất cập ......................................................................... 70
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập............................................. 72
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2................................................................................ 74


CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ
GIÁC VỀ TỘI PHẠM XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP – TỪ THỰC
TIỄN CƠ QUAN ĐIỀU TRA VKSND TỐI CAO ......................................... 75
3.1. Yêu cầu của việc bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động
tư pháp ............................................................................................................. 75
3.2. Phương hướng bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư
pháp ................................................................................................................. 76

3.3. Giải pháp bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư
pháp ................................................................................................................. 78
3.3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền tố giác về tội phạm xâm
phạm hoạt động tư pháp .................................................................................. 78
3.3.2. Hoàn thiện quy định về tổ chức bộ máy, hoạt động của Cơ quan điều tra
Viện kiểm sát nhân dân tối cao ....................................................................... 81
3.3.3. Hoàn thiện về hoạt động của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân
tối cao .............................................................................................................. 86
3.3.4. Nâng cao hiệu quả trong công tác đào tạo, bồi dưỡng Điều tra viên, Cán
bộ điều tra và công chức của Cơ quan điều tra VKSND tối cao .................... 89
3.3.5. Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị và chế độ đãi ngộ đối với Điều
tra viên, Cán bộ điều tra và công chức ............................................................ 92
3.3.6. Tăng cường sự lãnh đạo, kiểm tra, giám sát việc bảo đảm quyền tố giác
về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp ...................................................... 94
3.3.7. Giải pháp nâng cao chất lượng thu thập, tiếp nhận, quản lý và xử lý tố giác
về tội phạm thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra VKSND tối cao ...... Error!
Bookmark not defined.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3.............................................................................. 104
PHẦN KẾT LUẬN ....................................................................................... 105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 107


DANH SÁCH BẢNG
Bảng 2.1: Tổng số thông tin vi phạm, tội phạm và tố giác, tin báo do Cơ quan
điều tra VKSND tối cao tiếp nhận, giải quyết từ năm 2015 đến năm 2019.......53
Bảng 2.2: Số lượng vụ án, bị can xâm phạm hoạt động tư pháp do Cơ quan điều
tra VKSND tối cao khởi tố, điều tra từ năm 2015 đến năm 2019..................................55
Bảng 2.3. Tỷ lệ bị can bị Cơ quan điều tra VKSND tối cao khởi tố, điều tra
trong các vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp từ năm 2015 đến năm
2019......................................................................................................................................................................................................56



1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Một trong những chức năng quan trọng và là tiêu chí đánh giá mức độ dân
chủ của một Nhà nước, đó là việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền công dân.
Hiến pháp năm 2013 của nước ta tại Điều 14 quy định: “Ở nước Cộng Hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền cơng dân về chính trị, dân
sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được cơng nhận, tơn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo
Hiến pháp và pháp luật” và Điều 30 quy định: “Mọi người có quyền khiếu nại,
tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp
luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Điều đó thể hiện Nhà nước ta rất coi trọng
quyền tố cáo và việc bảo đảm quyền tố cáo của công dân, thông qua hiện quyền
tố cáo sẽ giúp cho Nhà nước phát hiện, phòng ngừa và xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tập thể và Nhà nước.
Đồng thời “quyền tố cáo” là một trong những quyền làm chủ trực tiếp của nhân
dân trong giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức.
Bảo đảm quyền công dân trong tố tụng hình sự là bảo đảm quyền cơng
dân trong hoạt động tư pháp, là việc Nhà nước thiết lập các điều kiện cần thiết
nhằm tôn trọng và thực hiện các quyền công dân của các cá nhân trong việc tố
giác về tội phạm.
Từ thực tiễn trong công tác đấu tranh, phịng chống tội phạm cho thấy để
nhanh chóng phát hiện được tội phạm và kịp thời ngăn chặn, xử lý thì ngồi cơng
tác chủ động nắm bắt tình hình và xử lý của các cơ quan Nhà nước trong việc
phịng ngừa, phát hiện vi phạm, tội phạm thì hầu hết việc phát hiện được sớm
các vi phạm, tội phạm lại phụ thuộc vào chính việc cơng dân chủ động tố giác
tội phạm đến các cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên, hiện nay việc bảo đảm cho
công dân thực hiện quyền tố giác về tội phạm còn gặp nhiều khó khăn, như: Điều

kiện kinh tế, xã hội, cơ sở vật chất, phương tiện đi lại cịn nhiều khó khăn; lực
lượng vũ trang, công chức làm công tác tiếp nhận tố giác về tội phạm tại một số


2

Cơ quan điều tra và Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra còn thiếu, trình độ cịn hạn chế; cơng tác tun truyền, phổ biến pháp
luật chưa sâu rộng; nhận thức pháp luật của người dân còn nhiều hạn chế, nhiều
trường hợp tâm lý tránh va chạm nên không tố giác tội phạm và khơng hợp tác,
làm việc với các cơ quan có thẩm quyền…
Trong những năm vừa qua, song song với tình hình kinh tế - xã hội nước
ta tiếp tục tiến triển tích cực, kinh tế vĩ mơ đang trên đà tăng trưởng; lạm phát
được kiểm sốt, chính sách xã hội tiếp tục được quan tâm thực hiện hiệu quả;
quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Cơng tác cải cách tư
pháp, đấu tranh phịng, chống tội phạm tiếp tục được Đảng, Nhà nước quan tâm
và đạt kết quả tích cực, quyền con người, quyền cơng dân ngày càng được nâng
cao. Tuy nhiên, tình hình vi phạm, tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp, có
chiều hướng gia tăng cả về số lượng và tính chất, mức độ nghiêm trọng không
chỉ đối với các loại tội phạm thông thường do các Cơ quan điều tra trong Công
an nhân dân và Quân đội nhân dân xử lý mà cả các tội phạm mang tính chất
đặc thù như tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp và tội phạm tham nhũng,
chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp do Cơ quan điều tra VKSND tối cao
điều tra xử lý; địi hỏi các cơ quan điều tra phải tích cực, nhanh chóng phát hiện
để kịp thời xử lý, giáo dục, răn đe, phịng ngừa nhưng do trình độ khoa học kỹ
thuật ngày càng phát triển, tội phạm hoạt động ngày càng tinh vi, khó phát hiện
gây khó khăn cho việc phát hiện, điều tra, xử lý; Đặc biệt là các loại tội phạm
xâm phạm hoạt động tư pháp và tội phạm tham nhũng chức vụ xảy ra trong
hoạt động tư pháp; bởi loại tội phạm này với đặc thù người phạm tội là những
người có thẩm quyền trong các cơ quan tư pháp dẫn đến người dân có tâm lý e

ngại sợ bị gây khó khăn hoặc trả thù nên không tố giác các hành vi vi phạm, tội
phạm. Do đó, việc phát hiện, khởi tố, điều tra các loại tội phạm xâm phạm hoạt
động tư pháp và tội phạm tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp
của Cơ quan điều tra VKSND tối cao ngày càng khó khăn.


3

Để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, đảm bảo việc phát hiện, khởi tố,
điều tra các loại tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, nhất là các loại tội
phạm tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp; từ ngày 01/01/2018,
Cơ quan điều tra VKSND tối cao đã được tăng thêm thẩm quyền điều tra tội
phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ quy định
tại Chương XXIII và Chương XXIV Bộ luật hình sự, xảy ra trong hoạt động tư
pháp mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án
nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền
tiến hành hoạt động tư pháp, khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của
Tịa án nhân dân.
Trước tình hình vi phạm, tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp và tội
phạm tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp vẫn diễn biến phức
tạp và có chiều hướng gia tăng, đã gây bức xúc trong xã hội, làm giảm lòng tin
của Nhân dân vào hệ thống cơ quan tư pháp. Do vậy, việc nâng cao chất lượng,
hiệu quả trong việc phát hiện, khởi tố, điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm
sát nhân dân tối cao là một vấn đề cấp thiết nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc
cải cách tư pháp và đổi mới tổ chức hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân; trong
đó việc bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp và tội
phạm tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp là vấn đề then chốt
nhằm hạn chế thấp nhất việc xảy ra oan sai, bỏ lọt tội phạm.
Để đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ mới tăng thêm theo quy định của Luật
tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015, nhằm nâng cao nhận thức pháp

luật cho lực lượng Cán bộ điều tra, Điều ra viên Cơ quan điều tra của Viện kiểm
sát nhân dân tối cao trong việc bảo đảm quyền tố giác, báo tin về tội phạm,
cũng như việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức và ý thức đấu tranh, phát hiện,
tố giác, báo tin kịp thời về tội phạm nói chung và tội phạm xâm phạm hoạt động
tư pháp nói riêng của cá nhân, cơ quan và tổ chức.


4

Với những lý do nêu trên, tôi chọn đề tài “Bảo đảm quyền tố giác về tội
phạm xâm phạm hoạt động tư pháp - Từ thực tiễn của Cơ quan điều tra Viện
kiểm sát nhân dân tối cao” làm đề tài cho luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Luật
Hiến pháp – Hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong nhiều năm vừa qua, tình hình nghiên cứu về hoạt động của các Cơ
quan điều tra nói chung và của Cơ quan điều tra VKSND tối cao nói riêng đã
thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, cán bộ thực tiễn, đến nay đã
có nhiều cơng trình nghiên cứu, cụ thể như sau:
- “Đổi mới tổ chức, hoạt động của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân
dân tối cao đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới” của tác giả TS.
Nguyễn Hải Phong – Phó Viện trưởng Thường trực VKSNDTC, Tạp chí Kiểm
sát, số 08/2017;
- “Những yêu cầu đặt ra khi Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối
cao thực hiện các luật mới về tư pháp hình sự”, của tác giả Ts. Nguyễn Tiến
Sơn – Thủ trưởng Cơ quan điều tra VKSND tối cao, Tạp chí Kiểm sát số
23/2017.
- “Đẩy mạnh cơng tác nghiên cứu lý luận, tổng kết công tác thực tiễn
hoạt động của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao đáp ứng yêu
cầu cải cách tư pháp” – Nguyễn Tiến Sơ- “Đổi mới tổ chức và hoạt động của
Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” –

Lại Viết Quang – Tạp chí Kiểm sát số 11 – tháng 6/2013;
- Bài viết “Phân tích một số tội phạm hoạt động tư pháp trong chương
XXIV Bộ luật hình sự năm 2015” - Tiến sỹ: Nguyễn Tiến Sơn, đăng trên Tạp
chí Kiểm sát số 23/2017.
- “Áp dụng pháp luật trong điều tra các tội xâm phạm hoạt động tư pháp
của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao Việt Nam hiện nay”, Luận
văn Thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội của tác giả Phạm Thị Thanh Thúy (2015).


5

- “Áp dụng pháp luật trong điều tra các tội phạm tham nhũng trong hoạt
động tư pháp của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao việt Nam
hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ luật học Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội của tác giả Nguyễn Đức Thực (2016).
- “Vai trò của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong
phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay”, luận văn Thạc sĩ, Học viện
Hành chính Quốc gia, của tác giả Trần Long Hân (2017).
Các cơng trình nghiên cứu trên mặc dù đã nghiên cứu cơ bản, toàn diện
về hoạt động tổ chức, điều tra nói chung của Cơ quan điều tra VKSND tối cao.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu cho thấy chưa có cơng trình nào nghiên cứu một
cách chi tiết và có hệ thống đối với nội dung “Bảo đảm quyền tố giác về tội
phạm xâm phạm hoạt động tư pháp - Từ thực tiễn của Cơ quan điều tra
Viện kiểm sát nhân dân tối cao”. Việc nghiên cứu đề tài trên của Luận văn là
cơng trình nghiên cứu đầu tiên về vấn đề này ở cấp độ luận văn thạc sỹ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Làm rõ vai trò, thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát
nhân dân tối cao theo quy định mới của luật;

- Tình hình vi phạm, tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm tham
nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ
quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao; những yêu cầu của cải cách tư pháp
và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp;
- Thực trạng bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư
pháp và tăng cường các cơ chế giám sát để bảo đảm quyền tố giác về tội phạm
xâm phạm hoạt động tư pháp của công dân.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn tập trung nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật và tại Cơ
quan điều tra VKSND tối cao về bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm


6

hoạt động tư pháp và tội phạm tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư
pháp trong khoảng thời gian từ năm 2015-2019.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Luận văn có mục đích nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn trong
đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp; khảo sát, đánh
giá thực trạng vai trò của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong
bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp trong điều
kiện hiện nay, kiến nghị, đề xuất các giải pháp thực hiện hiệu quả.
Trên cơ sở mục đích, Luận văn tập trung giải quyết một số nhiệm vụ cơ
bản sau:
- Nghiên cứu về vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn và thẩm quyền của Cơ
quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong điều tra các loại tội phạm
xâm phạm hoạt động tư pháp và tội phạm tham nhũng, chức vụ, xảy ra trong
hoạt động tư pháp.
- Nghiên cứu những quy định của pháp luật và thực trạng bảo đảm quyền
tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp từ thực tiễn của Cơ quan điều

tra VKSND tối cao.
- Dự báo được tình hình vi phạm, tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp
và tội phạm tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp thuộc thẩm
quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao; Đề xuất, kiến nghị các
giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế bảo đảm quyền tố giác, báo tin về tội phạm
xâm phạm hoạt động tư pháp của công dân trong điều kiện hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cách tiếp cận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở sử dụng cách tiếp cận
định lượng, tiếp cận tổng thể và tiếp cận bộ phận.
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam
về cải cách tư pháp, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong đấu tranh phòng,


7

chống tội phạm nói chung và tội tham nhũng trong hoạt động tư pháp nói riêng
trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Luận văn sử dụng các phương pháp của triết học duy vật biện chứng như:
Phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn; phương pháp lịch sử cụ thể.
Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng các phương pháp khác như logic, thống kê,
tổng hợp, phân tích, so sánh…để giải quyết những vấn đề mà đề tài đề cập đến,
cụ thể:
- Phương pháp phân tích - tổng hợp, so sánh được áp dụng nghiên cứu ở
Chương 1 của luận văn.
- Phương pháp thống kê, khảo sát thực tế, phân tích, so sánh được sử
dụng cho những nội dung nêu trong Chương 2 của luận văn.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp được áp dụng nghiên cứu ở Chương
3 của luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Trên cơ sở phân tích lý luận, thực trạng và giải pháp trong việc bảo đảm
quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp – Từ thực tiễn của Cơ
quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, luận văn đã chỉ ra những bất cập,
khó khăn trong công tác áp dụng, thực thi pháp luật về bảo đảm quyền tố giác
về tội phạm, nhất là các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp và tội phạm
tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp. Đồng thời, luận văn cũng
đưa ra một số giải pháp, kiến nghị để nâng cao chất lượng bảo đảm quyền tố
giác tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, để có thể đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay.
Bên cạnh đó, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng
dạy và nghiên cứu một số chuyên đề khác, nhất là trong việc giảng dạy có liên
quan đến hoạt động điều tra vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp và các vụ án
tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp của Cơ quan điều tra
VKSND tối cao.


8

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về bảo đảm quyền tố giác về tội phạm
xâm phạm hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra Viện kiểm
sát nhân dân tối cao.
Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm
hoạt động tư pháp - Từ thực tiễn của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân
tối cao.
Chương 3: Giải pháp bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt
động tư pháp.



9

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ ĐẢM BẢO QUYỀN TỐ GIÁC
VỀ TỘI PHẠM XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP
1.1. Quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp
Trong những năm qua, tình hình vi phạm, tội phạm nói chung và tội
phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm tham nhũng, chức vụ xảy ra trong
hoạt động tư pháp ngày càng diễn biến phức tạp và có chiều hướng gia tăng.
Mặt khác, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật hình sự, Luật Tổ chức Cơ quan điều
tra hình sự có hiệu lực năm 2018 và các văn bản hướng dẫn luật mới ban hành
đã thay đổi, bổ sung nhiều quy định để nâng cao hơn các cơ chế bảo đảm quyền
tố giác về tội phạm cho công dân. Đảm bảo tạo điều kiện tốt nhất cho người
dân được thực hiện quyền tố giác về tội phạm, nhất là tội phạm xâm phạm hoạt
động tư pháp là loại tội phạm đặc thù với chủ thể là những người có chức vụ,
quyền hạn trong các cơ quan tư pháp (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân
dân, Tòa án nhân dân, Cơ quan Thi hành án dân sự, Cơ quan Thi hành án hình
sự, các Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra), đều
là những người có trình độ, khả năng, điều kiện che giấu tội phạm tinh vi và
khó phát hiện hơn tội phạm thơng thường, trong khi người dân lại có tâm lý lo
sợ, e ngại khi tố cáo các hành vi của những chủ thể trong các cơ quan tư pháp
vì tâm lý ngại va chạm hoặc sợ bị trả thù. Do đó, việc nâng cao trách nhiệm bảo
đảm quyền cho công dân trong việc tố giác các tội phạm xâm phạm hoạt động
tư pháp và tội phạm tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp là hết
sức cần thiết.
1.1.1. Tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp
Theo quy định tại Điều 367 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định “Các tội
xâm phạm hoạt động tư pháp là những hành vi xâm phạm sự đúng đắn của hoạt
động tố tụng và thi hành án”. Khái niệm mới của Bộ luật hình sự năm 2015 đã



10

rút gọn so với khái niệm của Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung
năm 2009) quy định tại Điều 292: “Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là
những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm
sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của tổ chức, cơng
dân.”, tuy nhiên khai niệm này lại bao quát và đầy đủ hơn, góp phần xử lý
những hành vi phạm tội tương tự xảy ra trong các cơ quan khác ngoài cơ quan
điều tra chuyên trách, có sự mở rộng thêm phạm vi các quan hệ xã hội trong
lĩnh vực hoạt động tư pháp được pháp luật hình sự bảo vệ, bảo đảm đường lối
xử lý loại tội phạm này được chính xác và tồn diện.
Theo đó, về khách thể của tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp là các
quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động tố tụng và thi hành án, nhằm bảo đảm
cho các cơ quan này thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của minh theo quy
định của pháp luật. Các tội phạm này không chỉ xâm phạm đến hoạt động đúng
đắn, uy tín, chất lượng, hiệu quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ
quan tư pháp mà cịn xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, các tổ chức, các
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Về mặt khách quan của tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp được thể
hiện ở các hành vi xâm phạm trực tiếp đến hoạt động bình thường của các cơ quan
tiến hành tố tụng và thi hành án. Phần lớn các tội phạm này được thực hiện dưới
dạng hành động (dùng nhục hình; bức cung; mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác
cung cấp tài liệu sai sự thật; khai báo gian dối; trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn
khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử; ép buộc nhân viên tư pháp làm trái pháp luật;
làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc…). Một số tội phạm được thực hiện dưới dạng
không hành động (không chấp hành án; không thi hành án; thiếu trách nhiệm để
người bị giam, giữ trốn; không tố giác tội phạm; không ra quyết định hoặc không
chấp hành quyết định trả tự do cho người được trả tự do…).

Phần lớn các tội phạm có cấu thành hình thức (18/24 tội quy định tại các
Điều 368, 369, 370, 373, 374, 375, 378, 380, 382, 383, 384, 385, 386, 387, 388,


11

339, 390, 391). Đối với các trường hợp này, tội phạm được coi là hoàn thành
từ thời điểm người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội của mình. Đối với một
số tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp có cấu thành vật chất (4/24 tội quy
định tại các Điều 371,372, 376, 379, 381), tội phạm được coi là hoàn thành từ
thời điểm xảy ra hậu quả nghiêm trọng. Riêng Điều 377 BLHS năm 2015 được
xây dựng theo cấu thành tội phạm hỗn hợp, nghĩa là các dấu hiệu thuộc mặt
khách quan của cấu thành tội phạm vừa có yếu tố của cấu thành tội phạm hình
thức, vừa có yếu tố của cấu thành tội phạm vật chất. Lúc này, tùy từng trường
hợp mà tội phạm được xác định là hoàn thành từ thời điểm người phạm tội thực
hiện hành vi phạm tội (điểm a, b, c khoản 1 Điều 377 BLHS) hoặc từ thời điểm
xảy ra hậu quả (điểm đ khoản 1 Điều 377 BLHS).
Chủ thể của tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp có chủ thể đặc biệt,
là những người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan tiến hành tố tụng, như:
- Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp, Điều tra viên,
Cán bộ điều tra;
- Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND các cấp, Kiểm sát viên, Kiểm
tra viên;
- Chánh án, Phó Chánh án Tịa án các cấp, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư
ký Tịa án, Thẩm tra viên;
Ngồi ra chủ thể của tội phạm này có thể là:
- Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan thi hành các cấp, Chấp hành viên;
- Những người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
ở các cơ quan của Bộ đội Biên phòng, Hải quan; Kiểm lâm; lực lượng Cảnh sát
biển, Kiểm ngư; các cơ quan của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được

giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;
- Những người tham gia tố tụng (như bị can, bị cáo, người bị tạm giữ,
người làm chứng, người giám định, người phiên dịch, người bào chữa, người
bảo vệ quyền lợi của đương sự, bào chữa viên nhân dân…).


12

Trong một số trường hợp (như tội che giấu tội phạm – Điều 133; tội
không tố giác tội phạm – Điều 314…), chủ thể của tội phạm có thể là bất kỳ
người nào từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự.
Về mặt chủ quan của tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, hầu hết
được thực hiện bởi lỗi cố ý, trừ tội thiếu trách nhiệm để người bị tạm giữ, tạm
giam, người đang chấp hành án phạt tù trốn (Điều 376). Người phạm tội nhận
thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, nhưng vẫn thực hiện và
mong muốn cho hậu quả xảy ra hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Động cơ, mục đích phạm tội rất đa dạng nhưng không phải là dấu hiệu bắt buộc
của cấu thành tội phạm. [17, tr.850-858]
Với chủ trương xây dựng nền công tố mạnh, tăng cường trách nhiệm của
Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế gắn công tố với hoạt
động điều tra; Viện kiểm sát nhân dân ngày càng có vai trị quan trọng, quyết
định trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội bằng nhiều
biện pháp như: Thực hành quyền cơng tố, kiểm sát điều tra các vụ án hình sự
và trực tiếp điều tra một số loại tội phạm, trong đó, Cơ quan điều tra Viện kiểm
sát nhân dân tối cao là một trong những bảo đảm để thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của ngành Kiểm sát, chống oan sai, chống bỏ lọt tội phạm, góp phần bảo vệ
trật tự pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
cơng dân.
Có thể nói, hoạt động điều tra là một quyền năng quan trọng và được ví
như “quyền cơng tố nối dài” của Viện kiểm sát; không thể bảo đảm thực hiện

tốt chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nếu khơng có hoạt động điều tra
trực tiếp. Trước yêu cầu của cải cách tư pháp, hội nhập quốc tế và đấu tranh
phòng, chống các tội phạm nói chung và tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp
nói riêng thì Cơ quan điều tra VKSND tối cao ngày càng phải được củng cố,
tăng cường để bảo đảm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát
và đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.


13

Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân là một trong ba hệ thống của
Cơ quan điều tra nói chung nhưng có đối tượng điều tra (thẩm quyền và phạm vi
thẩm quyền) riêng biệt so với các Cơ quan điều tra khác và trực thuộc Viện kiểm
sát nhân dân tối cao. Dựa trên các quy định của pháp luật hiện hành có thể khái
qt mang tính quy nạp về Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân như sau:
Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân là một trong hệ thống Cơ
quan điều tra của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trực thuộc Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, được tiến hành các hoạt động điều tra theo qui định
của pháp luật nhằm thu thập, kiểm tra và đánh giá các chứng cứ chứng minh sự
kiện phạm tội đối với các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về
tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán
bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành
án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp.
1.1.2. Quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp
- Tố giác về tội phạm: Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, tố giác
về tội phạm là một trong những căn cứ để xác định có hay khơng có dấu hiệu
tội phạm để Cơ quan có thẩm quyền điều tra ra quyết định khởi tố vụ án hoặc
quyết định không khởi tố vụ án.
Điều 144 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về tố giác, tin báo
tội phạm, kiến nghị khởi tố như sau:

“1. Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có
dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền.
2. Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ
quan, tổ chức, cá nhân thơng báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin về
tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng.
3. Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến nghị
bằng văn bản và gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu liên quan cho Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát có thẩm quyền xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm.


14

4. Tố giác, tin báo về tội phạm có thể bằng lời hoặc bằng văn bản.
5. Người nào cố ý tố giác, báo tin về tội phạm sai sự thật thì tuỳ tính
chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị
truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật.”
Tố giác tội phạm là việc công dân tố cáo với các cơ quan có thẩm quyền
về những hành vi mà theo họ là có dấu hiệu vi phạm, tội phạm xâm phạm tới
quyền của người tố giác hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức mà họ phát hiện
được. Cơng dân có quyền và nghĩa vụ tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật hình
sự mà họ biết với các cơ quan, tổ chức. Luật cho phép công dân có thể tố giác
về tội phạm với bất cứ cơ quan, tổ chức nào mà họ thấy thuận tiện không nhất
thiết phải là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tồ án. Trong tất cả các trường
hợp đó, sự tố cáo của công dân về tội phạm đều được coi là tố giác. Tố giác tội
phạm có thể bằng miệng có thể trực tiếp hoặc qua thư, điện thoại hoặc bằng
văn bản…Trường hợp người bị hại trình báo về sự kiện phạm tội liên quan đến
họ cũng được coi là tố giác tội phạm. Có thể hiểu việc tố giác của cơng dân qua
điện thoại như là hình thức tố giác bằng miệng và trường hợp này cán bộ tiếp
nhận tố giác phải kịp thời vào sổ tiếp nhận đầy đủ thông tin người tố giác và
nội dung họ tố giác. Đồng thời, các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có thẩm

quyền phải kiểm tra và có trách nhiệm liên hệ trực tiếp với người tố giác tội
phạm để làm rõ căn cứ khởi tố vụ án.
Trách nhiệm tiếp nhận tố giác về tội phạm là của tất cả các cơ quan, tổ chức
không bắt buộc phải là các cơ quan tư pháp (Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án…).
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 144 Bộ luật Tố tụng hình sự, cơng dân
có thể tố giác tội phạm với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án hoặc với các
cơ quan khác, tổ chức khác. Không chỉ các cơ quan Tòa án, Kiểm sát, Cơ quan
điều tra, mà Điều luật còn quy định, các cơ quan khác, các tổ chức, bất kể là cơ
quan, tổ chức nào khi công dân tố giác tội phạm đều có trách nhiệm tiếp nhận.


15

Việc quy định như vậy nhằm tạo điều kiện bảo đảm tối đa quyền được tố giác về
tội phạm cho công dân; đồng thời tạo cơ chế thông tin về tội phạm được nhanh
chóng, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia rộng rãi và thuận tiện vào cuộc đấu
tranh với tội phạm, đồng thời nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức
trong việc đấu tranh với tội phạm, bảo vệ trật tự xã hội, quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân. Cũng theo quy định tại Điều 144, nếu công dân tố giác tội
phạm bằng miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản tiếp nhận.
Biên bản tiếp nhận tố giác tội phạm của công dân được lập theo yêu cầu chung
được quy định tại Điều 133 của Bộ luật tố tụng hình sự. Người tố giác tội phạm
được giải thích về trách nhiệm của mình đối với những thơng tin đã tố giác; Biên
bản phải ghi rõ nội dung tố giác và phản ánh rõ nguồn gốc thông tin về tội phạm
mà người tố giác biết được. Biên bản phải được người tố giác ký xác nhận. Cơ
quan, tổ chức nhận được tố giác tội phạm của cơng dân có trách nhiệm phải thông
báo cho Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát bằng văn bản để xem xét việc khởi
tô hay khơng khởi tố vụ án hình sự. Đối với những vụ án mà luật quy định chỉ
khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, các cơ quan tiếp nhận thơng tin ban đầu

đó cũng phải làm các thủ tục như đối với các trường hợp khác khi công dân tố
giác tội phạm. Cơ quan, tổ chức khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình mà
phát hiện thấy có dấu hiệu tội phạm cũng phải báo tin ngay cho Cơ quan điều tra
bằng văn bản.
1.2. Bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp
1.2.1. Khái niệm bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt
động tư pháp
Trong tố tụng hình sự, bảo đảm quyền tố cáo, khiếu nại là nguyên tắc cơ
bản. Cơng dân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại, cơng dân có quyền tố cáo
những việc làm trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự của các cơ quan
và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự hoặc của bất cứ cá nhân nào
thuộc các cơ quan đó.


16

Cơ quan có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét và giải quyết kịp thời,
đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo; thông báo bằng văn bản kết quả giải quyết
cho người khiếu nại, tố cáo biết và có biện pháp khắc phục.
Nguyên tắc này là một trong những biểu hiện bản chất dân chủ của tố
tụng hình sự nước ta, là phương tiện bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, cơ quan, tổ chức và cũng là một trong những hình thức phát hiện và
khắc phục những sai lầm trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự.
Tại Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Ở nước Cộng Hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền cơng dân về chính trị, dân sự,
kinh tế, văn hóa, xã hội được cơng nhận, tơn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến
pháp và pháp luật” và Điều 30 quy định: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố
cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp
luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Điều đó thể hiện Nhà nước ta rất coi trọng
quyền tố cáo và việc bảo đảm quyền tố cáo của công dân, thông qua hiện quyền

tố cáo sẽ giúp cho Nhà nước phát hiện, phòng ngừa và xử lý các hành vi vi
phạm pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tập thể và
Nhà nước. Đồng thời “quyền tố cáo” là một trong những quyền làm chủ trực
tiếp của nhân dân trong giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, cán bộ, công
chức.
Bảo đảm quyền công dân trong tố tụng hình sự là bảo đảm quyền cơng
dân trong hoạt động tư pháp, là việc Nhà nước thiết lập các điều kiện cần thiết
nhằm tôn trọng và thực hiện các quyền công dân của các cá nhân trong việc tố
giác về tội phạm.
Trong tố tụng hình sự, bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo là nguyên tắc cơ
bản. Công dân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại, cơng dân có quyền tố cáo
những việc làm trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự của các cơ quan
và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự hoặc của bất cứ cá nhân nào
thuộc các cơ quan đó.


17

Cơ quan có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét và giải quyết kịp thời,
đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo; thông báo bằng văn bản kết quả giải quyết
cho người khiếu nại, tố cáo biết và có biện pháp khắc phục.
Nguyên tắc này là một trong những biểu hiện bản chất dân chủ của tố
tụng hình sự nước ta, là phương tiện bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, cơ quan, tổ chức và cũng là một trong những hình thức phát hiện và
khắc phục những sai lầm trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì người tố giác
về tội phạm khi đã thực hiện quyền tố giác về tội phạm của mình tới các Cơ
quan có thẩm quyền thì sẽ được bảo đảm các quyền lợi cụ thể: Được yêu cầu
cơ quan có thẩm quyền giữ bí mật việc tố giác, được bảo vệ tính mạng, sức
khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản và được đảm bảo các quyền và lợi ích

hợp pháp khác của họ, người thân thích của họ khi bị đe dọa. Việc bảo vệ người
tố giác và người thân thích của họ đã được Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
quy định thành một Chương XXIV. Bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm
chứng, bị hại và người tham gia tố tụng khác. Trong quá trình giải quyết tố giác
về tội phạm thì người tố giác được các Cơ quan có thẩm quyền thông báo kết
quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và được quyền
khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố.
Căn cứ pháp lý của việc bảo đảm quyền tố cáo được quy định tại điều 32
trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 như sau:“Cá nhân, cơ quan, tổ chức có
quyền khiếu nại, cá nhân có quyền tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt
động tố tụng hình sự của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc
của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan đó.Cơ quan, người có thẩm quyền
phải tiếp nhận, xem xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo kịp thời, đúng pháp luật;
gửi văn bản kết quả giải quyết cho người khiếu nại, tố cáo, cơ quan, tổ chức


×