1
Chương trình Quy hoạch Môi trường Đô thị Việt Nam
Kinh nghiệm và bài học từ các Dự án tài trợ nhỏ
Để biết thêm thông tin, xin vui lòng truy cập vào trang web: www.uepp.org, www.acvn.vn,
hoặc email
Chương trình Quy hoạch Môi trường Đô thị Việt Nam là chương trình hợp tác giữa giữa Cộng
đồng Châu Âu và Chính phủ Việt Nam với mục tiêu tổng thể là cải thiện chất lượng quy hoạch
đô thị góp phần cải thiện điều kiện môi trường ở các đô thị cấp tỉnh tại Việt Nam. Chương trình
được thực hiện qua 4 năm (2005-2009) ở ba hợp phần chính là Hợp phần Dự án tài trợ nhỏ
(DATTN), Hợp phần Nâng cao năng lực và Đào tạo (NCNL&ĐT), và Hợp phần Kết nối đô thị và
Tăng cường thể chế (KNĐT&TCTC).
Hợp phần DATTN nhằm tạo cơ hội nâng cao nhận thức và năng lực quy hoạch địa phương cho
các thành phố và đô thị cấp tỉnh ở Vùng Đồng Bằng sông Cửu Long để tìm các giải pháp bền
vững cho các vấn đề môi trường đô thị nhằm mang lợi trực tiếp cho các cộng đồng địa phương,
đặc biệt là các nhóm hộ nghèo. Khoản tài trợ 2,9 triệu ơ-rô dành cho các dự án địa phương dựa
trên những sáng kiến, mô hình triển vọng và sự đa dạng về môi trường. Các Ban liên hiệp (gồm
các đơn vị chính quyền đô thị, các cơ quan ban ngành, các tổ chức đoàn thể, các doanh nghiệp)
đề xuất tài trợ các DATTN thông qua quá trình Kêu gọi đề xuất và hai vòng lựa chọn cạnh tranh.
Sau chuyến đi giới thiệu việc Kêu gọi đề xuất DATTN dành cho các đơn vị hợp lệ ở tất cả các
tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong khoảng thời gian từ tháng 10/2005 – 02/2006, Vòng
1 Kêu gọi đề xuất được khởi động qua Hội thảo đối tác quốc gia vào ngày 25/12/2006 tại Cần
Thơ để kêu gọi các tỉnh nộp đăng ký tóm tắt. Đến tháng 5/2006 có 32 dự án tóm tắt gửi tới Văn
phòng Dự án (VPDA) và Ban thẩm định đã lựa chọn 16 dự án vào vòng 2 để đề xuất dự án chi
tiết trong khoảng thời gian từ tháng 6-8/2006.
Vào tháng 11/2006, 10 dự án tốt nhất được chọn dựa trên các tiêu chí lựa chọn và được Ban chỉ
đạo Bộ Xây dựng và Phái đoàn Ủy ban Châu Âu phê duyệt tài trợ. Sau khi ký kết các hợp đồng
tài trợ này, các Ban liên hiệp địa phương đã chịu trách nhiệm triển khai các DATTN trong giai
đoạn từ tháng 12/2006 đến tháng 3/2009 theo cơ chế phân quyền hậu kiểm. Văn phòng Dự án
đóng vai trò là cơ quan chủ hợp đồng và hỗ trợ quá trình triển khai các DATTN.
Mặc dù hầu hết các DATTN mang các chủ đề hỗn hợp nhưng có thể phân theo 3 loại chủ đề
chính. Bốn DATTN (Hậu Giang, Sóc Trăng, Vĩnh Long và Cà Mau) tập trung vào nâng cấp đô thị
(đường, thoát nước, vệ sinh, và nhà ở). Ba dự án khác (Kiên Giang, Long An và Cao Lãnh) về
quản lý chất thải rắn. Hai dự án Cần Thơ và An Giang là về quản lý chất thải và cây xanh đô
thị. DATTN Trà Vinh chỉ tập trung vào phủ xanh đô thị.
Trên cơ sở mục tiêu của Chương trình, đặc trưng của các DATTN (xét về tính chất, nội dung
và bối cảnh) và hiện trạng quy hoạch môi trường đô thị ban đầu ở Hợp đồng tài trợ, VPDA đã
chuẩn bị và tổ chức các đợt đào tạo cho các thành viên Ban liên hiệp để họ giải quyết các vấn
đề chung (quy hoạch và quản lý dự án, sự tham gia của cộng đồng, tài chính và hành chính),
và các chủ đề kỹ thuật (thoát nước và vệ sinh, quản lý chất thải rắn, và phủ xanh đô thị) trong
các Kế hoạch hoạt động năm. Sau đó, tất cả các chuyến công tác tư vấn và các ghi chép kỹ
thuật được ghi lại thành cuốn sổ tay thực hiện DATTN để hỗ trợ các Ban liên hiệp DATTN trong
công tác vận hành hàng ngày.
Giai đoạn từ 10/2005 đến tháng 3/2009 là cả một giai đoạn thực sự sôi động từ lúc khởi đầu,
xây dựng cho đến khi thực hiện các DATTN nhằm cải thiện hiện trạng môi trường ở các thành
phố thuộc tỉnh. Nắm bắt cơ hội từ các chuyến đi hướng dẫn lộ trình và Kêu gọi đề xuất, các
Ban liên hiệp DATTN gồm các tổ chức địa phương đã tích cực tham gia và gửi đề xuất tới VPDA.
Trong giai đoạn nộp đề xuất từ tháng 2/2006 đến tháng 12/2006, từ tổng số 32 đăng ký tóm
tắt đã có 10 DATTN tốt nhất được chọn cấp tài trợ (khoảng 300.000 ơ rô cho một dự án) và đã
đi vào thực hiện đến cuối tháng 3/2009.
GIỚI THIỆU
2
Chương trình Quy hoạch Môi trường Đô thị Việt Nam
Kinh nghiệm và bài học từ các Dự án tài trợ nhỏ
Để biết thêm thông tin, xin vui lòng truy cập vào trang web: www.uepp.org, www.acvn.vn,
hoặc email
Cho đến nay, tất cả các Ban liên hiệp đã hoàn thành các mục tiêu dự án và đảm bảo đóng góp
nhiều tiền mặt và vật chất. Ban liên hiệp An Giang đã lắp đặt hệ thống thu gom rác 10 tấn/ngày,
cùng với các cây xanh được chăm tưới và 12.000 cây trồng mới trong khu vực du lịch núi Sam ở
thị xã Châu Đốc. Ban liên hiệp Cà Mau đã thiết kế dự án, huy động cư dân địa phương và phục
hồi lại khu phố và khu ven sông của 128 hộ gia đình, trở thành mô hình cho thành phố đi vào
nâng cấp tất cả các khúc sông trong thành phố. Ban liên hiệp Cần Thơ vận động quần chúng,
cung cấp các công cụ truyền thông và sách báo, trồng mới cây xanh các khu chợ, trường học,
khu dân cư tại 13 phường thuộc huyện Ninh Kiều, cùng với mô hình nhỏ về quản lý chất thải rắn
cho 400 hộ gia đình khu vực 8, phường An Bình. Ban liên hiệp Đồng Tháp đã huy động 2.200 hộ
gia đình thuộc phường 2 phân loại đúng 65% lượng rác, ủ phân vi sinh 5 tấn rác và hỗ trợ 75
hộ gia đình xây dựng nhà vệ sinh. Ban liên hiệp tỉnh Hậu Giang thành công khắc phục các kênh
ô nhiễm, xây dựng nhà vệ sinh trường học cho các khu 4 và 5, phường 4, thị xã Vị Thanh. Ban
liên hiệp Kiên Giang đã xây dựng mô hình quản lý chất thải rắn tại phường Vĩnh Bảo với việc
phân loại đúng 45% lượng rác và ủ 8 tấn phân vi sinh/ngày. Ban liên hiệp Long An đã xây dựng
mô hình nhỏ về quản lý chất thải rắn cho các hộ gia đình ở phường 1 để thực hiện phân loại,
thu gom và ủ 3 tấn rác/ngày tại xưởng ủ phân được xây khá tốt. Ban liên hiệp Sóc Trăng khắc
phục được 648 m kênh rạch ô nhiễm cho 489 hộ gia đình và xây dựng nhà vệ sinh cho 58 hộ gia
đình thuộc Khóm 2, phường 3. Ban liên hiệp Trà Vinh bảo dưỡng trên 1.000 cây cổ thụ và trồng
mới 10.000 cây dọc các tuyến phố và khu công nghiệp. Ban liên hiệp tỉnh Vĩnh Long cải thiện
được khu chợ Phước Thọ không còn đọng nước, vệ sinh ô nhiễm và thu gom rác kém hiệu quả
để phục vụ cho 200 hộ kinh doanh và 2.000 người đi chợ. Qua những quá trình này, còn có các
hoạt động hỗ trợ nâng cao nhận thức, nâng cao năng lực và hành động hiệu quả. Những khía
cạnh chính từ các thành tích nêu trên có thể được tổng kết dưới đây:
Hình thành và thực hiện thể thức Ban liên hiệp: Đây là lần đầu tiên một Chương trình ở Việt
Nam áp dụng rộng thể thức đối tác địa phương này, song hành với mô hình chung là Ban quản
lý dự án. Các thành viên Ban liên hiệp (ít nhất là 3 thành viên và trong đó có một thành thành
viên là tổ chức đoàn thể như trường hợp Cà Mau) cùng làm việc theo trách nhiệm và quyền lực
nêu rõ trong Thỏa thuận cộng tác. Hầu hết các Ban liên hiệp áp dụng tốt mô hình này cho hoạt
động kết nối ở các đô thị địa phương, ở cấp vùng và quốc gia. Các đối tác chính quyền và doanh
nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc điều hành và đóng góp kinh phí cho các DATTN. Tuy
nhiên, một số Ban liên hiệp cũng gặp một số khó khăn như các thành viên chưa thực sự tích cực
tham gia, thiếu thành viên cần thiết để phối hợp các bên liên quan, hoặc thiếu cán bộ chuyên
trách, vv.
Điều hành DATTN trong bối cảnh địa phương: Việc điều hành các quy chế dự án và hệ thống tài
chính kép là những cách làm phức tạp nhất. Việc tuân thủ các Hướng dẫn thủ tục của EC, các
quy định địa phương, các yêu cầu và phê duyệt kiểm toán là rất phức tạp và chiếm nhiều thời
gian trong quá trình thực hiện vốn đã rất ngắn ngủi của VPDA và các DATTN. Trong bối cảnh
những văn bản thông thường ở cấp địa phương chỉ là tiếng Việt, việc áp dụng ngôn ngữ tiếng
Anh là chính cũng làm mất nhiều thời gian và không mang tính linh hoạt. Tuy nhiên, VPDA đã
làm việc cùng với các DATTN dần xây dựng được nền tảng phối kết hợp, các thủ tục hành chính
và tài chính để có thể vận hành được.
Phát triển cộng đồng: Đây thực là những kinh nghiệm năng động và ý nghĩa về những hỗ trợ
của VPDA và những nỗ lực của các DATTN trong các hoạt động huy động con người. Có được
nhận thức cao, sự tham gia tích cực và tinh thần làm chủ địa phương, tất cả những điều này
đều là do sự quan tâm và những giải pháp chu đáo đối với lợi ích của cộng đồng sở tại, thông
qua các đối tác phù hợp (Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, và các nhóm cộng tác viên liên quan).
Quy chế cộng đồng được xây dựng và nhất trí nhằm đảm bảo các thành tích thu được. Những
bài học chính có được là các Ban liên hiệp phải hành động như người làm dâu trăm họ để thông
báo, giải thích và vận động sự tham gia của cư dân địa phương vào tất cả các giai đoạn dự án.
Giải pháp kỹ thuật: Hầu hết các DATTN đã kết hợp điều kiện tài trợ (thời gian ngắn, ngân sách
ít) và yêu cầu (mô hình có thể nhân rộng) với tính phù hợp với bối cảnh địa phương (chi phí
thấp cho các khu vực nghèo, dọn dẹp khu thực địa, thiết kế theo tập quán của địa phương, vv).
Các DATTN về nâng cấp đô thị (như Cà Mau, Sóc Trăng và Hậu Giang) chủ yếu áp dụng các ống
cống có nắp (cấu trúc gạch bê tông) để thay thế các cống đất, rạch ứ đọng nước. Các dự án này
3
Chương trình Quy hoạch Môi trường Đô thị Việt Nam
Kinh nghiệm và bài học từ các Dự án tài trợ nhỏ
Để biết thêm thông tin, xin vui lòng truy cập vào trang web: www.uepp.org, www.acvn.vn,
hoặc email
cũng thiết kế hệ thống thu gom rác thường xuyên để rác không làm tắc nghẽn hệ thống cống
vào mùa mưa bão. Các bên liên quan và sự tham gia từ cộng đồng trong quá trình quy hoạch
và xây dựng đã giúp họ khắc phục nhiệm vụ khó khăn nhất, nhất là khâu giải phóng mặt bằng.
Các nhóm tư vấn địa phương cũng có ý kiến phản hồi trong quá trình thực hiện. Bài học chính
thu được là thiết kế thi công dự án (ví dụ Cà Mau và Châu Đốc) cần phải đầy đủ.
Trong tất cả các trường hợp, quá trình thiết kế-thầu- phê duyệt các công trình thi công theo yêu
cầu của chính quyền địa phương thường rất lâu.
Về quản lý chất thải rắn: Hầu hết các Ban liên hiệp thực hiện các hoạt động quản lý chất thải
rắn theo các dạng khác nhau. Nhóm thứ nhất gồm Cần Thơ, Cao Lãnh, Kiên Giang và Long An,
đã hoàn thành hầu hết quy trình, từ phân loại rác tại hộ gia đình, thu gom và xử lý rác vô cơ
và hữu cơ bằng kỹ thuật than thiện môi trường. Các Ban liên hiệp An Giang, Sóc Trăng, và Hậu
Giang thiết lập hệ thống thu gom rác mới nhằm ngăn ô nhiễm ở các khu trọng điểm (khu du
lịch, khu dân cư nghèo). Vĩnh Long và Cà Mau cải thiện các dịch vụ thu gom cho các khu chợ và
dân cư ven sông. Các hoạt động theo hình thức trình diễn cho thấy các giải pháp cho các vấn đề
chất thải đô thị là có thể. Nhưng để đảm bảo tính bền vững cần có những nỗ lực thường xuyên,
quy hoạch đúng và cơ chế tài chính phù hợp đối với toàn bộ hệ thống quản lý chất thải rắn.
Cây xanh đô thị: Phủ xanh đô thị là yếu tố quan trọng trong môi trường thị xã vùng Đồng bằng
sông Cửu Long. Các DATTN đã thực hiện một số hoạt động can thiệp điển hình. Ban liên hiệp
Trà Vinh tập trung gìn giữ hệ thống cây xanh đô thị trong toàn bộ khu vực thị xã Trà Vinh. Ban
liên hiệp tỉnh An Giang thực hiện nâng chất cây xanh ở khu vực du lịch nổi tiếng Núi Sam. Ban
liên hiệp Cần Thơ thiết kế và trồng mới các các loại cây xanh cho quận trung tâm Ninh Kiều.
Những DATTN này cho thấy việc trồng mới cây xanh và bảo dưỡng cây lâu năm phục vụ cộng
đồng đô thị là có thể ở tất cả các thành phố (chi phí thấp, các kỹ thuật trồng và chăm sóc đơn
giản), nhưng chúng cần những nỗ lực và sự quan tâm thường xuyên của thành phố trong việc
quy hoạch, sự tham gia của quần chúng, việc trồng và bảo dưỡng cây xanh.
Tính bền vững: Những kinh nghiệm thu được cho thấy sự quan tâm và nỗ lực duy trì các DATTN
và nhân rộng/áp dụng trên diện rộng tới các thành phố/khu vực khác. Đối với hoạt động nâng
cấp và phủ xanh đô thị, những kinh nghiệm gồm việc thiết kế, thực hiện, kế hoạch vận hành
và bảo dưỡng, chuyển giao và giám sát các kết quả dự án. Với hệ thống đường nước hiện tại,
việc chăm tưới cây xanh ở khu vực núi Sam tỉnh An Giang mang tính bền vững hơn việc tưới
nước bằng xe tưới. Dự án Cà Mau đưa ra được kế hoạch và những kinh nghiệm hữu ích đối với
thị xã để tiếp tục phục hồi khu ven sông ở các đoạn sông khác. Đối với các dự án quản lý chất
thải rắn, việc tiếp tục sau dự án gặp nhiều thách thức hơn, vì cách tiếp cận và hoạt động can
thiệp tài trợ rất khác với các điều kiện thông thường. Tuy nhiên, một số hoạt động nhân rộng và
áp dụng trên diện rộng cũng đang được tìm kiếm ở các DATTN. Dự án Long An đã chuyển giao
xưởng ủ phân vi sinh cho một đơn vị tư nhân và nhân rộng mô hình sang 6 thị trấn khác bằng
việc sử dụng ngân sách môi trường tỉnh. Dự án Kiên Giang chuyển giao hệ thống sang huyện
Châu Thành. Cao Lãnh và Cần Thơ chuyển giao hệ thống ủ phân vi sinh cho các công ty công
trình công cộng tỉnh, và cam kết áp dụng sang các khu vực khác ở đô thị.
Bên cạnh những đánh giá giữa kỳ, những đánh giá nội bộ của những bên liên quan (lãnh đạo
thành phố, cá cơ quan ngành dọc, hội phụ nữ), tình hình thực tế và nhận xét của các thành viên
DATTN cho thấy đã có những thay đổi đáng kể về nhận thức, năng lực nâng cao và cải thiện về
môi trường mang lại từ quá trình thực hiện các DATTN. Mặc dù những kết quả thu được từ các
DATTN vẫn tùy thuộc vào đánh giá cuối cùng của địa phương cũng như đoàn đánh giá EC, song
Văn phòng Dự án và các Ban liên hiệp tin tưởng rằng các DATTN sẽ là các tài liệu tham khảo hữu
ích để các đô thị ở Đồng bằng sông Cửu Long và nơi khác cải thiện môi trường của họ.
4
Chương trình Quy hoạch Môi trường Đô thị Việt Nam
Kinh nghiệm và bài học từ các Dự án tài trợ nhỏ
Để biết thêm thông tin, xin vui lòng truy cập vào trang web: www.uepp.org, www.acvn.vn,
hoặc email
THU GOM, VẬN CHUYỂN, XỬ LÝ RÁC THẢI VÀ NÂNG CHẤT CÂY XANH
Ở KHU DU LỊCH NÚI SAM, TỈNH AN GIANG 5
DỰ ÁN THIẾT KẾ, CHỈNH TRANG TUYẾN DÂN CƯ VEN SÔNG RẠCH
TRUNG TÂM THÀNH PHỐ CÀ MAU 7
CẢI THIỆN CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG TẠI KHU VỰC QUẬN NINH KIỀU,
THÀNH PHỐ CẦN THƠ 9
DỰ ÁN THÍ ĐIỂM PHÂN LOẠI RÁC TẠI NGUỒN VÀ HỖ TRỢ VỆ SINH
Ở THÀNH PHỐ CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP 11
XÂY DỰNG MÔ HÌNH QUẢN LÝ VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỞNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG
Ở THỊ XÃ VỊ THANH, TỈNH HẬU GIANG 13
MÔ HÌNH THÍ ĐIỂM HỆ THỐNG QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG
Ở THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ 15
PHÂN LOẠI RÁC TẠI NGUỒN, CẢI TẠO VÀ PHỤC HỒI BÃI RÁC
HIỆN HỮU TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ TÂN AN, TỈNH LONG AN 17
CẢI THIỆN HẠ TẦNG VÀ VỆ SINH MÔI TRƯỜNG Ở KHÓM 2,
PHƯỜNG 3 THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG 19
BẢO DƯỠNG CÂY CỔ THỤ VÀ TRỒNG MỚI CÂY XANH ĐƯỜNG PHỐ
VÀ TRONG CÔNG VIÊN THỊ XÃ TRÀ VINH 21
QUY HOẠCH VÀ CẢI THIỆN MÔI TRƯỜNG CHỢ PHƯỚC THỌ
TẠI THÀNH PHỐ VĨNH LONG 23
MỤC LỤC
5
Chương trình Quy hoạch Môi trường Đô thị Việt Nam
Kinh nghiệm và bài học từ các Dự án tài trợ nhỏ
Dự án An Giang là một trong 10 dự án nhỏ được Chương trình Quy hoạch Môi trường đô thị Việt Nam
(UEPP-VN) hỗ trợ. Đây là Chương trình được tài trợ bởi Ủy ban Châu Âu và do Bộ Xây dựng thực hiện. Để
biết thêm thông tin, xin vui lòng vào trang web: www.uepp.org, www.acvn.vn hoặc email
Núi Sam, theo như lời ông Lê Lộc - nguyên
Phó Trưởng Ban liên hiệp dự án “Thu gom, vận
chuyển, xử lý rác và nâng chất cây xanh khu
du lịch Núi Sam” - hàng năm thu hút khoảng
2 triệu lượt người hành hương và khách du lịch
đến viếng đền chùa và tham gia lễ hội vía Bà.
Và các nhu cầu khác nhau về dịch vụ du lịch
đã tạo ra công ăn việc làm cho hơn hai phần
ba trong số 4.600 hộ sinh sống trên khu vực
núi thuộc phường Núi Sam.
Nhưng theo thời gian môi trường lại trở thành
nạn nhân của phát triển du lịch. Khách du lịch
xả rác và rác bị gom thành đống không được
thu gom, nhà vệ sinh công cộng không có đủ
số lượng và chất lượng và cây xanh chết khô
dần. Vì vậy vào tháng 12/2006 UBND thị xã
đã thiết kế và bắt đầu một dự án nhằm cải
thiện điều kiện sống của người dân và gìn giữ
Núi Sam xanh tươi quanh năm.
Quá trình thực hiện
Điều đầu tiên chúng tôi làm là thành lập một
Ban liên hiệp quản lý dự án với các thành viên
là đại diện của các tổ chức liên quan nhiều
nhất đến dự án. Tiếp theo chúng tôi tiến hành
thông tin cho tất cả các ban ngành liên quan
và người dân địa phương về dự án và các hợp
phần của dự án. Sau đó chúng tôi đã chuẩn
bị, thẩm tra và chỉnh sửa thiết kế ban đầu cho
đến khi tất cả các thành phần liên quan đồng
ý rằng nó có thể tạo ra được sự cải thiện bền
vững của khu vực.
Trong hợp phần cây xanh, chúng tôi phân phát
6.000 cây con cho các hộ dân tình nguyện
đảm bảo trồng và chăm sóc cây trên Núi Sam.
Và để giữ cho cây luôn xanh, chúng tôi đã một
lần nữa thay đổi thiết kế hệ thống tưới nước,
thay vì dùng các xe chở nước, chúng tôi đã thi
công một hệ thống tưới cố định với các máy
bơm, các bể chứa nước, và hệ thống ống phân
phối nước.
Trong hợp phần rác thải, chúng tôi tiến hành
khảo sát theo hệ thống hiện trạng khu vực và
lập kế hoạch quản lý rác thải. Chúng tôi đặt
220 thùng rác mới gần các đống rác tự phát và
ở những nơi cần đặt thùng rác công cộng như
là các điểm du lịch, khu dân cư và khách sạn.
Sau đó chúng tôi vận động cộng đồng tham
gia tổng vệ sinh rác ứ đọng trên Núi Sam. Và
chúng tôi cũng đã thành lập đội thu gom và
vận chuyển rác được trang bị trang phục bảo
hộ và xe đẩy tay. Sau cùng, thông qua hình
thức tờ rơi và pano, chúng tôi cũng khuyến
khích người dân và khách du lịch không xả
rác bừa bãi. Từ khởi điểm không có gì, hiện
có khoảng 10 tấn rác thải đã được thu gom và
đưa ra khỏi địa bàn.
Trong hợp phần hệ thống vệ sinh, chúng tôi đã
thiết lập hai nhà vệ sinh công cộng lưu động
và thi công 4 nhà vệ sinh công cộng cố định.
Nước từ hệ thống tưới mới được dùng trong
nhà vệ sinh.
Vướng mắc và khó khăn trong quá trình
thực hiện
Chúng tôi đã đối mặt với nhiều khó khăn và
rút được nhiều bài học kinh nghiệm trong quá
trình thực hiện.
Đầu tiên, chúng tôi cho rằng để đạt được
những gì mà chúng ta chưa có là khó khăn,
nhưng để giữ vững được những gì mà chúng
ta đang có cũng khó khăn không kém. Do đó,
duy trì nhận thức cao và dịch vụ thu gom rác
tốt ở Núi Sam yêu cầu phải có những nỗ lực
không ngừng từ người dân địa phương sau khi
dự án kết thúc.
Thứ hai, chúng tôi nhận thấy rằng rất khó để
thực hiện các sự thay đổi về thiết kế của dự
án. Các qui định của Việt Nam và Ủy ban Châu
Âu yêu cầu phải chuẩn bị rất nhiều giấy tờ,
văn bản liên quan. Và sau này chúng tôi phát
hiện ra là các trạm bơm cần phải có hệ thống
cung cấp điện riêng, mà dự án đã không thể
hỗ trợ được.
Thứ ba, chi phí cho việc xây dựng các trạm
trung chuyển rác đã tăng lên đáng kể do sự
chậm trễ trong quá trình đấu thầu. Điều này
cũng đã đòi hỏi chúng tôi phải tìm kiếm các
nguồn kinh phí khác để xây dựng các trạm
trung chuyển rác.
Thứ tư, sau khi nhiều cây bị chết do thiếu
nước, chúng tôi đã nhận ra rằng cần phải hoãn
lại việc trồng cây đến khi hệ thống tưới được
đưa vào vận hành hoặc trồng mẫu vào mùa
mưa.
THU GOM, VẬN CHUYỂN, XỬ LÝ RÁC THẢI VÀ NÂNG CHẤT
CÂY XANH Ở KHU DU LỊCH NÚI SAM, TỈNH AN GIANG
Cây chết khô và rác năm 2007
6
Chương trình Quy hoạch Môi trường Đô thị Việt Nam
Kinh nghiệm và bài học từ các Dự án tài trợ nhỏ
Dự án An Giang là một trong 10 dự án nhỏ được Chương trình Quy hoạch Môi trường đô thị Việt Nam
(UEPP-VN) hỗ trợ. Đây là Chương trình được tài trợ bởi Ủy ban Châu Âu và do Bộ Xây dựng thực hiện. Để
biết thêm thông tin, xin vui lòng vào trang web: www.uepp.org, www.acvn.vn hoặc email
Thu gom rác trên núi Sam
Thứ năm, mặc dù đã có biển hiệu và thùng
rác mới nhưng nhiều du khách vẫn tiếp tục xả
rác. Và cho dù có những can thiệp của chúng
tôi nhưng dịch vụ thu gom rác vẫn bị quá tải
trong mùa lễ hội cao điểm.
Bài học kinh nghiệm
Chúng tôi rất tự hào về các kinh nghiệm tốt đã
có được trong dự án.
Đầu tiên là Ban quản lý dự án của chúng tôi
là một Ban liên hiệp bao gồm các cơ quan
chuyên môn, tổ chức đoàn thể và cộng đồng.
Chúng tôi nhận thấy rằng mô hình Ban liên
hiệp khuyến khích sự tham gia đa dạng, tăng
cường mối quan hệ và sự hiểu biết lẫn nhau
giữa các thành viên, điều này dẫn tới việc có
được quyết định và thông tin tốt hơn, cân
bằng giữa điểm mạnh và yếu của các thành
viên và giúp tiếp cận được nhiều thành phần
cán bộ trong các tổ chức thành viên. Do đó,
sự tham gia của cộng động địa phương là rất
chủ động.
Thứ hai, chúng tôi bảo đảm sự đóng góp hiệu
quả bằng hiện vật từ nhiều nguồn khác nhau
như UBND Thị xã Châu Đốc, Chùa Bà. Họ đã
đóng góp 2 nhà vệ sinh lưu động và xây 4 nhà
vệ sinh cố định, đất làm trạm trung chuyển
rác, một trạm cấp điện 3 pha và cây con với
tổng giá trị 1,555 tỷ đồng.
Thứ ba, chúng tôi cũng đã được các hộ kinh
doanh buôn bán đóng góp vào hoạt động nâng
cao nhận thức cộng đồng bằng cách sản xuất
tài liệu truyền thông như là panô, áp phích,
bảng nhắc nhở khách du lịch “bỏ rác vào
thùng”.
Cuối cùng, chúng tôi đã khuyến khích người
dân địa phương nhận cây con miễn phí nếu họ
cam kết trồng cây đúng cách và bảo đảm cây
trồng không chết.
Tính bền vững và kế hoạch tương lai.
Trồng mới cây xanh
UBND thị xã đã cấp ngân sách để xây dựng
hệ thống điện và sẽ tài trợ xây dựng trạm
trung chuyển rác và dịch vụ thu gom rác bằng
nguồn thu từ hoạt động du lịch. Đồng thời,
chính quyền địa phương sẽ thực hiện giám
sát tình hình vệ sinh môi trường tại các điểm
du lịch. UBND Phường Núi Sam và Ban Công
trình công cộng sẽ tiếp tục duy trì các hoạt
động dự án, nâng cấp dịch vụ thu gom rác và
đầu tư thêm vào trang thiết bị chuyên dùng
trong quản lý và xử lý rác thải. Hội Phụ nữ và
Phòng Tài nguyên Môi trường sẽ tiếp tục vận
động các hộ kinh doanh buôn bán gìn giữ môi
trường sạch đẹp và nhắc nhở du khách bỏ rác
vào thùng và lập quy định bảo vệ môi trường
tại khu du lịch.
Một số thống kê cơ bản
Tổng giá trị
dự án:
€350.204 (80% tài trợ của Ủy
ban Châu Âu; 20% đối ứng địa
phương)
Số người
hưởng lợi:
23.000 người trong 4.600 hộ trên
Núi Sam
Ban quản lý
dự án
UBND thị xã Châu Đốc (lãnh đạo
Ban liên hiệp), Ban Công trình
công cộng, Phòng Tài nguyên Môi
trường, Phòng Quản lý Đô thị,
Mặt trận Tổ Quốc, Đoàn Thanh
niên, Hội Phụ nữ và Đài phát
thanh thị xã.
Liên hệ: Ông Phan Hồng Vân –
Trưởng ban Liên hiệp
Ủy Ban Nhân Dân Thị xã Châu Đốc
76 Lê Lợi, Thị xã Châu Đốc, An Giang
Tel: 0780.3866211
7
Chương trình Quy hoạch Môi trường Đô thị Việt Nam
Kinh nghiệm và bài học từ các Dự án tài trợ nhỏ
Dự án Cà Mau là một trong 10 dự án nhỏ được Chương trình Quy hoạch Môi trường đô thị Việt Nam
(UEPP-VN) hỗ trợ. Đây là Chương trình được tài trợ bởi Ủy ban Châu Âu và do Bộ Xây dựng thực hiện. Để
biết thêm thông tin, xin vui lòng vào trang web: www.uepp.org, www.acvn.vn hoặc email
Khởi động từ tháng 12 năm 2006 và hoàn tất
vào tháng 03/2009, Dự án “Thiết kế, chỉnh
trang tuyến dân cư ven sông rạch trung tâm
thành phố Cà Mau (sông Tắc Thủ, từ cầu Gành
Hào đến kênh 16)” đã hỗ trợ cải thiện môi
trường và sức khỏe của cư dân địa phương
sinh sống dọc đoạn sông Tắc Thủ, trung tâm
thành phố Cà Mau. Tại địa bàn trình diễn, Dự
án đã thực hiện hoạt động nâng cấp vỉa hè và
hệ thống thoát nước, điều chỉnh chỉ giới xây
dựng đường sông cho các hộ dân, xây dựng
hành lang ven sông và một bể tự hoại chung,
đồng thời triển khai hoạt động thu gom rác
ven sông.
Nằm ở trung tâm khu vực 1-3, thuộc phường 2
và khu vực 1 thuộc phường 9, khu dân cư ven
sông thuộc địa bàn trình diễn có 125 hộ với
khoảng 700 người. Kết quả dự kiến đạt được
từ địa bàn trình diễn của dự án là quy hoạch
chi tiết mô hình nâng cấp đô thị làm cơ sở phát
triển cho khoảng khu dân cư dọc 13,5km bờ
sông trung tâm thành phố Cà Mau.
Địa bàn trước khi có dự án – rất nhiều rác thải và các hộ gia
đình lấn chiếm hành lang sông
“Ý tưởng dự án xuất phát từ một nhận thức
là đường thủy đã đóng vai trò rất quan trọng,
nhưng đang dần bị ô nhiễm bởi cư dân đã xả
rác và nước bẩn xuống sông”, ông Nguyễn Hữu
Đô – Trưởng ban Liên hiệp, PGĐ Sở Xây Dựng
phát biểu. Trưởng ban nói thêm, có khoảng
85% hộ không có trang bị bể tự hoại. Đồng
thời, ông cũng cho biết, trong hoàn cảnh còn
thiếu các quy định quy hoạch và việc thực hiện
luật chưa nghiêm, rất nhiều người dân đã xây
dựng lấn chiếm đường sông và vi phạm hành
lang an toàn. Cuối cùng, ông nhấn mạnh, Dự
án này rất phù hợp đối với những khu vực nhà
ven sông đô thị, chiếm gần 14% tổng số hộ
trong đô thị tỉnh.
Quy trình thực hiện
Ông Hồ Ngọc Tấn, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân
dân Thành phố Cà Mau nói, Ban Liên hiệp đã có
biện pháp quản lý dự án, quản lý môi trường,
quy hoạch và nâng cao nhận thức cộng đồng
về môi trường. “Trước hết, chúng tôi khảo sát
tất cả hộ gia đình để tìm hiểu hoàn cảnh và
điều kiện vật chất. Sau đó chúng tôi tổ chức
tập huấn cho hơn 100 cộng tác viên đều sinh
sống trong khu vực dự án về sự tham gia của
cộng đồng, nhận thức về môi trường và hoạt
động nhóm. Sau đó, các cộng tác viên tổ chức
những buổi họp nhóm nhỏ, hoặc tham gia vào
các buổi họp thường xuyên của các tổ chức
cộng đồng và giới thiệu mục tiêu của dự án,
lợi ích và nhiệm vụ của người dân”.
Vướng mắc và khó khăn trong quá trình
thực hiện
Dự án đã gặp phải một số vướng mắc. Ví dụ,
ngay sau khi khởi công xây dựng hành lang,
Ban liên hiệp gặp phải quy định của Bộ Giao
thông về chỉ giới đường sông yêu cầu phải duy
trì luồng rộng 50m, mặc dù luồng rộng hiện
hữu cho khu vực chỉ có 30m. Vì vậy trước khi
thực hiện tiếp Ban liên hiệp phải được sự chấp
thuận điều chỉnh quy định cho luồng rộng tại
khu vực là 30m. Tương tự, Ban liên hiệp không
lường trước được quy định phải có phương án
đảm bảo an toàn giao thông thủy trong quá
trình xây dựng.
Và bài học quan trọng nhất là nhu cầu để có
kế hoạch phân bổ nguồn đóng góp từ phía
cộng đồng. “Chúng tôi dự kiến mỗi hộ sẽ đóng
góp khoảng 2,000 Euro”, ông Đô nói, “nhưng
chúng tôi chưa làm rõ và yêu cầu cam kết
bằng văn bản”. Và các hộ dân đã không góp
đủ số tiền này vì họ cho rằng: những đóng góp
dưới nhiều hình thức khác nhau của họ - bao
gồm phần đất đai bị mất đi vì giải tỏa mặt
bằng, các công trình trên đất đó cũng bị hủy,
và chi phí để xây lại mặt tiền ngôi nhà – tất cả
đã nhiều hơn mức đóng góp cần thiết.
Bài học kinh nghiệm
Chúng tôi đã rút ra được một số bài học kinh
nghiệm, ông Hồ Ngọc Tấn, Phó Chủ tịch UBND
TP. Cà Mau, nói, “một là đảm bảo nguồn đóng
góp của cộng đồng cho hoạt động nâng cấp.
Chúng tôi thấy rằng yếu tố quyết định là phải
có sự tham gia của bên thụ huởng mới đánh
giá được trọn vẹn lợi ích của dự án. Chúng tôi
DỰ ÁN THIẾT KẾ, CHỈNH TRANG TUYẾN DÂN CƯ VEN SÔNG RẠCH
TRUNG TÂM THÀNH PHỐ CÀ MAU
8
Chương trình Quy hoạch Môi trường Đô thị Việt Nam
Kinh nghiệm và bài học từ các Dự án tài trợ nhỏ
Dự án Cà Mau là một trong 10 dự án nhỏ được Chương trình Quy hoạch Môi trường đô thị Việt Nam
(UEPP-VN) hỗ trợ. Đây là Chương trình được tài trợ bởi Ủy ban Châu Âu và do Bộ Xây dựng thực hiện. Để
biết thêm thông tin, xin vui lòng vào trang web: www.uepp.org, www.acvn.vn hoặc email
đã giới thiệu dự án một cách cẩn trọng, lắng
nghe nguyện vọng của cộng đồng và nhận
được sự tin tưởng của người dân. Sau đó để
đổi lấy một hành lang mới và chứng nhận sử
dụng đất, các hộ dân đã đồng ý tháo dỡ phần
cấu trúc lấn sông và dời đến chỉ giới quy định,
hoàn thiện lại kiến trúc mặt tiền sông và đóng
góp tổng cộng 1,638 tỉ đồng, tương đương
500 Euro mỗi hộ”
Hành lang ven sông mới
Một số kinh nghiệm khác liên quan đến cải tiến
hạng mục vệ sinh và quản lý chất thải rắn. Ví
dụ, một là bể tự hoại chung tiết kiệm diện tích
xây dựng để cho khoảng 12 hộ dân cùng chia
sẻ sử dụng; cấp chứng nhận sử dụng đất cho
12 hộ nghèo để có thể thế chấp vay vốn ngân
hàng để xây dựng bể tự hoại; và một xuồng
mới để thu gom rác nổi dọc theo bờ sông.
“Một kinh nghiệm khác”, Ông Đô nói, “là các
hướng dẫn mới của chúng tôi để giúp các hộ
gia đình tự bố trí lại mặt bằng nhà của họ”.
“Và một kinh nghiệm cuối cùng”, Ông Đô nói
thêm, “là thuyết phục người dân ký vào một
văn bản cam kết hợp tác với chính quyền địa
phương. Hơn nữa, UBND tỉnh Cà Mau cũng đã
ban hành quy định về quản lý xây dựng, phát
triển và sử dụng các công trình, phong cảnh
và môi trường dọc theo các tuyến sông, kênh
rạch trên địa bàn Cà Mau trong năm 2008’”
Xuồng thu gom rác trên sông
Tính bền vững và Các kế hoạch trong
tương lai
Ông Đô nói: “Sau khi dự án thí điểm này
được hoàn tất, chúng tôi sẽ chuyển giao trách
nhiệm vận hành và duy tu cho các đối tượng
hưởng lợi.” Trong khi đó, UBND tỉnh đã có kế
hoạch mở rộng dự án, bao gồm việc nâng cấp
các con đường và bờ kè sông ở các địa bàn
thuộc các phường khác, đem lại lợi ích cho
khoảng 3,600 hộ dân với hơn 15.000 người.
Nguồn vốn cho hoạt động này có thể được lấy
từ “Chương trình nâng cấp đô thị quốc gia” –
một chương trình sẽ được thực hiện từ 2009
đến 2015 thông qua vốn tín dụng của Ngân
hàng Thế giới.
Một số thống kê cơ bản
Tổng giá trị
dự án:
€ 664,391(59.95% từ Ủy ban
Châu Âu; 40.05% từ các nguồn
vốn địa phương và các bên hưởng
lợi.)
Số người
hưởng lợi:
114 hộ (khoảng 700 người)
Ban quản lý
dự án
Sở Xây dựng Cà Mau (lãnh đạo);
UBND thành phố; Hội Phụ nữ.
Liên hệ: Ông Nguyễn Hữu Đô
Trưởng Ban Liên hiệp – Sở Xây dựng Cà Mau
3 An Dương Vương, P. 7,
TP. Cà Mau, Tỉnh Cà Mau
Tel: 0780.3830884 – Fax: 0780.3830834
9
Chương trình Quy hoạch Môi trường Đô thị Việt Nam
Kinh nghiệm và bài học từ các Dự án tài trợ nhỏ
Dự án Cần Thơ là một trong 10 dự án nhỏ được Chương trình Quy hoạch Môi trường đô thị Việt Nam
(UEPP-VN) hỗ trợ. Đây là Chương trình được tài trợ bởi Ủy ban Châu Âu và do Bộ Xây dựng thực hiện. Để
biết thêm thông tin, xin vui lòng vào trang web: www.uepp.org, www.acvn.vn hoặc email
Đây là câu chuyện về một trong 10 DATTN
của Chương trình Quy hoạch Môi trường Đô thị
Việt Nam. Ông Lê Hồng Phát, nguyên Trưởng
BLH dự án “Cải thiện chất lượng môi trường
tại khu vực quận Ninh Kiều, TP. Cần Thơ”, mô
tả quá trình thực hiện dự án theo cách nói của
riêng mình.
Cho tới năm 2006, nhiều người dân ở đây
nhận thấy rằng việc thu gom rác vẫn chưa
được thực hiện một cách có hiệu quả. Không
những rác chưa được thu gom hết, mà việc xử
lý rác vẫn còn rất tốn kém. Vì vậy, chúng tôi
đã quyết định làm một điều gì đó để cải thiện
tình hình.
Sau nhiều vòng đề xuất cạnh tranh và có được
nguồn tài trợ từ Chương trình UEPP-VN, chúng
tôi đã thiết kế một dự án với ba hợp phần: (i)
nâng cao nhận thức cộng đồng về các vấn đề
rác thải, cây xanh và bảo vệ môi trường; (ii)
cải thiện hoạt động thu gom rác, bao gồm cả
việc nâng cấp các thiết bị thu gom; và (iii)
xanh hóa các khu vực dự án.
Hiện trạng quản lý rác đô thị
Quá trình thực hiện
Cho đến nay, chúng tôi đã tiến hành nhiều
hoạt động đặt ra cho dự án. Đầu tiên chúng
tôi tiến hành công tác tuyên truyền nâng cao
nhận thức nhân dân về quản lý rác thải và
trồng cây xanh tại các điểm dự án.
Việc hỗ trợ giáo dục môi trường cũng được tiến
hành tại 13 trường tiểu học, bao gồm việc tập
huấn giáo viên, cung cấp tủ sách môi trường,
thi văn nghệ vẽ tranh, thi phân loại rác trong
nhà trường, phát động học sinh tham gia
trồng và chăm sóc cây. Đồng thời, 13 tủ sách
(mỗi tủ 500 đầu sách) môi trường đã được bố
trí tại các phòng thông tin cấp phường và đã
tiến hành thiết kế và phân phát các sổ tay bảo
vệ môi trường đến các thành phần tham gia
liên quan.
Thứ hai, chúng tôi đã tăng cường dịch vụ thu
gom rác thải ở Quận Ninh kiều bằng cách đặt
thêm các thùng rác công cộng ở các khu vực
dân cư, chợ và trường học.
Thứ ba, ở vùng dân cư nhỏ tại khu vực ngoại
ô thành phố, chúng tôi đã giới thiệu một mô
hình phân loại rác tại hộ gia đình và đã xây
dựng một xưởng ủ phân vi sinh cho rác thải
hữu cơ.
Thứ tư, chúng tôi đã trồng được hơn 1.450 cây
xanh, 2.887 m2 cỏ, và 117 cụm hoa sen. Bên
cạnh đó, chúng tôi cũng đã xây đựng được
khoảng 76 bồn hoa, 402 m2 thảm cỏ, và lát
được 139 m2 vỉa hè ở 13 địa điểm.
Cuối cùng, chúng tôi đã thiết lập quy định về
bảo vệ và chăm sóc cây xanh cho toàn thành
phố.
Vướng mắc và khó khăn trong quá trình
thực hiện
Trong quá trình thực hiện dự án, chúng tôi
gặp một số khó khăn chính: tìm một địa điểm
thích hợp cho xưởng ủ phân và xác định một
khu dân cư làm thí điểm việc thu gom rác.
Lúc đầu, chúng tôi chọn quận Ninh Kiều vì đó
là một khu vực trung tâm của Cần Thơ. Nhưng
không may là chúng tôi không tìm được một
bãi đất công cộng còn trống, phù hợp với việc
xây dựng và vận hành một xưởng ủ phân vi
sinh.
Sau nhiều nỗ lực, UBND Thành phố đã cấp
cho một mặt bằng làm xưởng ủ phân tại Khu
vực 7, phường Cái Khế. Nhưng khu đất này
lại nằm giữa ngay một khu dân cư đông đúc,
và người dân ở đây phản đối việc xây xưởng
ủ phân tại đây vì có thể gây ra mùi khó chịu,
ruồi nhặng và làm giảm giá trị khu đất. Để
khắc phục điều này, chúng tôi đã tổ chức một
chuyến đi tham quan cho các đại diện của
cộng đồng đến xưởng ủ phân vận hành rất tốt
và đảm bảo vệ sinh tại Ninh Thuận. Tuy vậy,
trong khi chờ phê duyệt cuối cùng cho việc sử
dụng khu đất, chúng tôi đã quyết định chọn
một địa điểm khác vì khu đất này quá nhỏ.
Chúng tôi đã tìm và được Thành phố cấp cho
địa điểm thứ ba tại Khu vực 4, phường An
Bình. Khu đất này nằm cạnh đường và có rất
ít nhà dân xung quanh. Nhưng một lần nữa,
CẢI THIỆN CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG TẠI KHU VỰC QUẬN
NINH KIỀU, THÀNH PHỐ CẦN THƠ
10
Chương trình Quy hoạch Môi trường Đô thị Việt Nam
Kinh nghiệm và bài học từ các Dự án tài trợ nhỏ
Dự án Cần Thơ là một trong 10 dự án nhỏ được Chương trình Quy hoạch Môi trường đô thị Việt Nam
(UEPP-VN) hỗ trợ. Đây là Chương trình được tài trợ bởi Ủy ban Châu Âu và do Bộ Xây dựng thực hiện. Để
biết thêm thông tin, xin vui lòng vào trang web: www.uepp.org, www.acvn.vn hoặc email
người dân ở đây lại kêu ca rằng “không được
làm xưởng ủ phân ngay sau lưng nhà tôi”.
Một lần nữa, chúng tôi lại tổ chức một chuyến
tham quan cho các đại diện của người dân ở
đây, nhưng lần này là xưởng ủ phân tại Cao
Lãnh, nhưng nhiều người dân sau khi tham
quan đã nói rằng: “đây là một đống lộn xộn
mất vệ sinh”.
Chúng tôi cũng đã từng tìm một địa điểm ngay
trong khu đất của Trường đại học Cần Thơ. Ý
tưởng ở đây là: thu gom rác hữu cơ từ ngay
trong nhà trường và các khu vực lân cận. Hơn
nữa, đây cũng có thể coi là một công trình
nghiên cứu của nhà trường. Nhưng Ban lãnh
đạo nhà trường lại từ chối việc vận chuyển rác
từ bên ngoài đi qua khuôn viên nhà trường.
Cuối cùng, chúng tôi cũng đã tìm được một
khu đất ngay trong bãi rác cũ của Cần Thơ -
nơi đã được đóng cửa từ 2004. Khu đất này
cách khu dân cư thử nghiệm thu gom rác
(thuộc Khóm 8, phường An Bình) chừng 4km.
Hiện tại, toàn bộ hệ thống phân loại rác tại
nguồn đã được hoàn tất và đi vào vận hành
mặc dù quy mô của nó vẫn còn nhỏ với sự
tham gia của 372 hộ gia đình và 620 kg rác
thải hữu cơ được thu gom mỗi ngày.
Bài học kinh nghiệm
Chúng tôi nhìn nhận việc phân loại rác tại
nguồn như là một bài học kinh nghiệm tốt. Đó
là một hoạt động có thể nhìn thấy rất tốt để
nâng cao nhận thức cộng đồng và sự hiểu biết
về các vấn đề môi trường.
Một bài học kinh nghiệm khác là các qui định
của chúng tôi với sự cam kết của cộng đồng
dân cư, các ngành nghề kinh doanh, các
trường học để nuôi dưỡng, chăm sóc và bảo
vệ cây xanh tại quận Ninh Kiều.
Tính bền vững và các kế hoạch tương lai
Chúng tôi đã bàn giao trang thiết bị và hệ
thống vi sinh để Công ty công trình đô thị vận
hành và mở rộng phân loại xử lý rác sang các
nơi khác.
Thêm vào đó, Thành phố Cần Thơ đang thiết
lập một bãi chôn lấp rác thải mới, trong đó
có bao gồm một xưởng ủ phân vi sinh. Các
phương pháp truyền thông để nâng cao nhận
thức của dự án sẽ được nhân rộng ra phạm
vi toàn thành phố. Mỗi thành viên của Ban
liên hiệp sẽ tiếp tục nhân rộng các hoạt động.
Chúng tôi đã áp dụng Hệ thông tin địa lý (GIS)
để quản lý việc bảo dưỡng cây xanh.
Xưởng ủ phân vi sinh được dự án xây dựng
Một số thống kê cơ bản
Tổng giá trị
dự án:
€349,930 (90% đóng góp của
EC; 10% từ chính quyền và nhóm
người dân hưởng lợi trực tiếp ở
địa phương);
€ 10,000 đóng góp hiện vật của
địa phương.
Số người
hưởng lợi:
120 hộ tại khóm 8, phường An
Bình, Q. Ninh Kiều, TP. Cần Thơ
Ban quản lý
dự án
Sở Xây dựng Cần Thơ, Sở Khoa
học và Công nghệ, Sở Giáo dục
và Đào tạo, Sở Tài nguyên và Môi
trường, Sở Kế hoạch và Đầu tư
Liên hệ: Ông Lê Hồng Phát
Trưởng Ban liên hiệp – Sở Xây Dựng Cần Thơ
Số 25 Ngô Hữu Hạnh,
Quận Ninh Kiều, TP. Cần Thơ.
Tel: 0710.3820335 / 2246369
11
Chương trình Quy hoạch Môi trường Đô thị Việt Nam
Kinh nghiệm và bài học từ các Dự án tài trợ nhỏ
Dự án Đồng Tháp là một trong 10 dự án nhỏ được Chương trình Quy hoạch Môi trường đô thị Việt Nam
(UEPP-VN) hỗ trợ. Đây là Chương trình được tài trợ bởi Ủy ban Châu Âu và do Bộ Xây dựng thực hiện. Để
biết thêm thông tin, xin vui lòng vào trang web: www.uepp.org, www.acvn.vn hoặc email
Bắt đầu từ tháng 12/2006 và hoàn tất vào
tháng 03/2009, dự án “Thí điểm phân loại
rác tại nguồn và hỗ trợ vệ sinh ở thành phố
Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp giúp cải thiện môi
trường và nâng cao sức khỏe của 12.000 dân
Phường 2 – phường trung tâm và đông dân
nhất thành phố Cao Lãnh.
Theo lời Điều phối viên Dự án, bà Nguyễn Thị
Thanh Nga - Phòng Tài nguyên Môi trường - ý
tưởng dự án là từ mối lo ngại lượng rác thải
đang trở thành một vấn nạn ở thành phố Cao
Lãnh. Bà Nga giải thích: “Do tăng trưởng kinh
tế, các lượng tiêu dùng của hộ gia đình ngày
càng nhiều hơn và thải ra nhiều loại rác hơn
trước kia. Bãi rác hiện có của thành phố đã
gần đầy, và nếu xây dựng bãi chôn lấp rác
mới thì chúng ta phải kéo dài tuổi thọ của bãi
rác càng lâu càng tốt. Chúng ta chỉ có thể làm
được điều này bằng cách giảm thiểu, tái sử
dụng và tái chế rác.” Bà Nga cũng nói rằng
trong khi thu nhập của một số gia đình đã
tăng lên nhưng vẫn còn khoảng 117 hộ trong
phường quá nghèo nên không có tiền để xây
nhà vệ sinh hoặc chỉ có hố xí đào đơn giản.
Nhà vệ sinh hộ gia đình trước dự án
Quá trình thực hiện
Dự án thí điểm thực hiện phân loại rác tại
nguồn ở 2.213 hộ gia đình. Mỗi nhà được nhận
hai thùng rác nhựa loại 20 lít – thùng màu
xanh để rác hữu cơ và màu cam để rác vô cơ.
Sử dụng thùng rác trong nhà thay thế cho bao
nylon; và hai thùng với hai màu khác nhau
giúp cho công nhân thu gom có thể thu gom
riêng rác đã phân loại. Rác hữu cơ được thu
gom và xử lý thành phân vi sinh đem đi sử
dụng như là chất bổ sung dinh dưỡng cho đất
và phân bón cho cây xanh và vườn cây.
Vướng mắc và khó khăn trong quá trình
thực hiện
Bà Nga nói rằng dự án này nghe có vẻ dễ thực
hiện nhưng trên thực tế có rất nhiều công việc
phải làm để lập nên hệ thống. “Ban liên hiệp
đã tiến hành rất nhiều nghiên cứu và kế hoạch
ngay từ đầu trước khi thu gom rác. Chẳng hạn
như chúng tôi đã tiến hành khảo sát nhận thức
cộng đồng về mồi trường, và khảo sát thành
phần rác thải trong 100 hộ để làm dữ liệu cơ sở
ban đầu. Và chúng tôi cũng tổ chức tập huấn
cho khoảng 100 tuyên truyền viên đến từ Hội
Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, các trưởng khu phố
và các tổ trưởng tổ dân phố - là những người
sinh sống trong khu vực dự án do đó có được
sự hỗ trợ của họ là điều rất quan trọng. Họ
được học về cách làm việc theo nhóm, cách
thức vận động mọi người cùng tham gia, cách
nâng cao nhận thức về môi trường, và quan
trọng hơn hết là cách phân loại rác”, bà Nga
nhấn mạnh.
Rác thải bừa bãi
Được trang bị các kỹ năng từ tập huấn, các
tuyên truyền viên tổ chức các buổi họp nhóm
nhỏ hoặc tham gia các cuộc họp thường kỳ
của khu phố và của các tổ chức đoàn thể để
giải thích về lợi ích và quy trình phân loại rác.
Các hoạt động tuyên truyền khác bao gồm
phát trên sóng truyền thanh và truyền hình,
tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về môi trường,
dán nhãn phân biệt loại rác trên thùng rác,
băng-rôn và panô, các bài báo, các sự kiện
dựa vào trường học; và các đợt tổng vệ sinh
của các tổ chức đoàn thể cộng đồng.
Theo bà Nga, lúc đầu chỉ có khoảng 40% hộ
gia đình phân loại rác đúng; tại thời điểm kết
thúc dự án con số đó chỉ đạt 61%, mặc dù đã
có 100% hộ gia đình ký vào bản cam kết sẽ
thực hiện. “Đây là ý tưởng mới, cần nhiều thời
gian để người dân có thể tạo được thói quen”
bà Nga cho biết. “Một số hộ không chịu sử
dụng thùng rác mà tiếp tục dùng bao nylông;
họ nói rằng đã quen dùng bao nylông, không
phải tốn tiền mua, để trong nhà không tốn
diện tích và có thể cột miệng bao lại để khỏi
mùi. Chúng tôi cũng gặp phải một số vấn đề
về việc thùng rác bị hư hỏng, một số là do
công nhân thu gom không cẩn thận. Chúng
tôi đã nghĩ về phương án giải quyết vấn đề
này chẳng hạn như là gia cố lại thùng rác và
cải thiện chất lượng thiết kế thùng; quay lại sử
DỰ ÁN THÍ ĐIỂM PHÂN LOẠI RÁC TẠI NGUỒN VÀ HỖ TRỢ VỆ
SINH Ở THÀNH PHỐ CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP
12
Chương trình Quy hoạch Môi trường Đô thị Việt Nam
Kinh nghiệm và bài học từ các Dự án tài trợ nhỏ
Dự án Đồng Tháp là một trong 10 dự án nhỏ được Chương trình Quy hoạch Môi trường đô thị Việt Nam
(UEPP-VN) hỗ trợ. Đây là Chương trình được tài trợ bởi Ủy ban Châu Âu và do Bộ Xây dựng thực hiện. Để
biết thêm thông tin, xin vui lòng vào trang web: www.uepp.org, www.acvn.vn hoặc email
dụng bao nylông đựng rác; hoặc áp dụng hình
thức người dân đổ rác vào thùng công cộng”.
Bà Nga đã thừa nhận rằng ‘đã có vấn đề về
thùng rác trong quá trình ủ phân vi sinh. Đó là
sự không đủ thùng để chứa rác hữu cơ trong
quá trình vận chuyển đến xưởng ủ phân vi
sinh. Bà Nga cũng nói thêm rằng họ sẽ tiến
hành các cải tiến về môi trường làm việc và
tăng cường giám sát để tạo điều kiện cho quá
trình ủ phân vi sinh được dễ dàng và hiệu quả
hơn, và cũng để nâng cao chất lượng của sản
phẩm phân vi sinh.
Bài học kinh nghiệm
Dự án thí điểm phân loại rác tại nguồn và hỗ
trợ vệ sinh tại Thành phố Cao Lãnh đã thành
công. Hai phương pháp ủ phân vi sinh đã được
áp dụng; một là hệ thống thùng ủ thụ động có
dùng chất vi sinh bổ trợ (Công nghệ yếm khí
tùy nghi), và một phương pháp khác dùng hệ
thống chủ động yêu cầu phải đảo các luống
rác hàng tuần. Thành phố đã đánh giá các
cách làm này và đã quyết định phương pháp
thứ nhất là hiệu quả hơn cho một công trình
có quy mô đầy đủ.
Phân vi sinh được sản xuất từ cả hai phương
pháp được sử dụng bởi Công ty Cấp thoát
nước và Môi trường đô thị để bón cho cây
xanh, thực vật trong thành phố, và cũng đã
có rất nhiều nhu cầu mua phân vi sinh từ các
cá nhân riêng lẻ. Điều này đã cung cấp thêm
các tiềm năng cho việc mở rộng các xưởng ủ
phân vi sinh.
Vào thời điểm kết thúc dự án, hơn 54 tấn phân
vi sinh đã được sản xuất từ 270 tấn rác hữu
cơ (20%). Bằng cách chuyển đổi rác hữu cơ
thành nguồn tài nguyên, lượng rác đến bãi rác
đã được giảm xuống và hệ thống cây xanh
thành phố cũng được hưởng lợi. Những người
nhặt rác cũng có thể tiếp cận được nhiều
lượng rác tái chế hơn, do đó giúp tăng thu
nhập của họ và giảm bớt rác đến bãi rác. Hệ
thống thu gom rác cũng đã được cải thiện và
các hộ gia đình đã hiểu hơn nhiều về các loại
rác khác nhau.
Dự án cũng tiến hành hỗ trợ xây nhà vệ sinh
cho 75 hộ nghèo và cận nghèo ở phường 2.
Tất cả các hộ có “sổ nghèo” do Nhà nước cấp
đều được nhận hỗ trợ này từ dự án. Người dân
bỏ phiếu chọn hộ cận nghèo nào cần được hỗ
trợ và danh sách tất cả các hộ được chọn hỗ
trợ được công bố tại văn phòng của khu phố
để tất cả mọi người đều được biết. Dự án bỏ ra
chi phí xây dựng hầm tự hoại và hộ dân hoàn
tất phần cấu trúc phía trên với kiểu dáng tùy
theo ý thích và chất lượng phù hợp với khả
năng tài chính của họ. Nhiều hộ cũng nhân dịp
này làm nhà tắm bên trên và như thế cũng cải
thiện tình trạng vệ sinh cho cá nhân. Kết quả
đã cải thiện tình trạng vệ sinh của các hộ được
nhận hỗ trợ nói riêng cũng như cho cộng đồng
nói chung. Nhà vệ sinh mới cũng góp phần
vào việc tạo sự tiện lợi, vệ sinh cá nhân và sức
khỏe của người dân tốt hơn.
Rau được bón thử nghiệm bằng phân vi sinh
Tính bền vững và các kế hoạch tương lai
Dự án ở Phường 2 đã được mở rộng ra Phường
1 và 4. Đã đề xuất ý tưởng phân loại rác tại
nguồn tại khu vực chợ và cũng có các khả năng
thu gom rác hữu cơ từ các điểm kinh doanh,
chẳng hạn như là nhà hang để làm phân vi
sinh. Chính quyền thành phố cũng muốn lập
quỹ tín dụng hỗ trợ cho vay làm hầm tự hoại
để có nhiều hộ nghèo hơn được hưởng lợi.
Một số thống kê cơ bản
Tổng giá trị
dự án:
€233.243 (90% tài trợ của Ủy
ban Châu Âu; 10% đối ứng của
địa phương)
€10.000 đóng góp khác ngoài
cam kết trong Hợp đồng tài trợ từ
các đối tác địa phương
Số người
hưởng lợi:
Phân loại rác: 2.213 hộ (12.000
người)
Hầm tự hoại: 75 hộ nghèo và
cận nghèo
Ban quản lý
dự án
UBND Thành phố Cao Lãnh;
Công ty Cấp thoát nước và Môi
trường đô thị Đồng Tháp; Phòng
Tài nguyên và Môi trường Tp.
Cao Lãnh, Phòng Quản lý Đô
thị Tp.Cao Lãnh; Đài Phát thanh
Tp.Cao Lãnh; Đoàn Thanh niên;
Hội Phụ nữ; Ban Quản lý chợ Cao
Lãnh; Công ty TNHH Hoàng Anh.
Liên hệ: Ông Nguyễn Hữu Dũng
Trưởng Ban liên hiệp - Ủy Ban Nhân Dân Tp Cao Lãnh
Số 3 Đường 30/4, phường 1
TP. Cao Lãnh, Tỉnh Đồng Tháp
Tel: 067. 3851601
13
Chương trình Quy hoạch Môi trường Đô thị Việt Nam
Kinh nghiệm và bài học từ các Dự án tài trợ nhỏ
Dự án Hậu Giang là một trong 10 dự án nhỏ được Chương trình Quy hoạch Môi trường đô thị Việt Nam
(UEPP-VN) hỗ trợ. Đây là Chương trình được tài trợ bởi Ủy ban Châu Âu và do Bộ Xây dựng thực hiện. Để
biết thêm thông tin, xin vui lòng vào trang web: www.uepp.org, www.acvn.vn hoặc email
Bắt đầu vào tháng 12/2006 và hoàn tất vào
tháng 03/2009 dự án “Xây dựng mô hình quản
lý và bảo vệ môi trường dựa vào cộng đồng
ở Phường 4, TX. Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang”
nhằm cải thiện môi trường và sức khỏe người
dân được tiến hành thực hiện. Dự án là một
ví dụ điển hình trong nâng cấp đô thị. Ông
Nguyễn Văn Huyền, Trưởng Ban liên hiệp dự
án mô tả dự án như sau.
Kênh bị ô nhiễm bởi rác và nước thải trước khi có dự án
Mặc dù là một trong những phường trung tâm
nhưng khu vực dự án thí điểm được chọn là
Khu vực 5 và 6 của Phường 4 có sở hạ tầng
môi trường nghèo nhất trong thị xã.
Đa số hộ nghèo chưa có hố xí hợp vệ sinh. Xe
đẩy tay không thể vào các con hẻm nhỏ để thu
gom rác. Rác không được thu gom đọng lại và
gây tắc nghẽn các con kênh hở. Các con kênh
này dẫn nước mưa và nước thải đang trong
tình trạng bị hư hỏng và bị ứ rác không thoát
nước được. Các con kênh bị tắc nghẽn này góp
phần gây ra úng ngập thường xuyên; nước có
mùi hôi, bị nhiễm bẩn bởi chất thải sinh hoạt
của người dân, tại môi trường thuận lợi cho
việc phát sinh muỗi và các sinh vật gây bệnh
khác. Thêm vào đó rất nhiều hộ nghèo không
có nhà vệ sinh với hầm tự hoại.
Chúng tôi đã tiếp cận người dân về ý tưởng
giải quyết một số vấn đề này trong một dự án
thí điểm và tất cả các hộ dân đều đồng lòng
tham gia. Chúng tôi nghĩ rằng nếu thực hiện
thành công dự án cải thiện môi trường và sức
khỏe người dân trong khu vực nhỏ này, sau đó
có thể nhân rộng dự án ở các khu vực còn lại
của thị xã Vị Thanh.
Quá trình thực hiện
Sau đây là một số hoạt động của dự án đã
hoàn tất. Đầu tiên là lập thiết kế kỹ thuật cơ
sở. Sau đó chúng tôi tổ chức tham vấn và lấy ý
kiến đồng thuận của chính quyền địa phương
và người dân trong khu vực dự án. Ngay sau
đó chúng tôi tiến hành mua sắm thùng rác và
bắt đầu thu gom rác, nạo vét kênh, xây dựng
hệ thống cống và hầm tự hoại. Chúng tôi cũng
tiến hành soạn thảo quy ước cộng đồng và
thông qua sự đồng thuận của cộng đồng, và
được ban hành bởi UBND phường.
Vướng mắc và khó khăn trong quá trình
thực hiện
Dự án phải đối mặt với nhiều khó khăn và
chúng tôi đã rút ra nhiều bài học kinh nghiệm.
Thứ nhất, chúng tôi nhận thấy rằng các hoạt
động phát triển cộng đồng bao gồm tham vấn,
vận động và lấy ý kiến cộng đồng mất nhiều
thời gian hơn dự tính. Lúc đầu người dân còn
hoài nghi vì đã nghe nhiều lời hứa hẹn về việc
nâng cấp trong khu vực. Để giải quyết vấn đề
này, đội ngũ tuyên truyền viên, phần lớn là hội
viên Hội phụ nữ, đã dành nhiều thời gian đến
từng nhà để giải thích và thuyết phục. Ban liên
hiệp cũng tổ chức đưa cộng đồng tham quan
các dự án tương tự ở tỉnh bạn để tìm hiểu
cách thức cộng đồng đóng góp vào công tác
cải tạo vệ sinh môi trường như thế nào. Thứ
hai, chúng tôi cũng rất ngạc nhiên với con số
mét khối rác được thu gom từ các con kênh.
Bài học kinh nghiệm
Chúng tôi rất tự hào về một số kinh nghiệm
tốt có được trong thực hiện dự án.
Thứ nhất, chúng tôi đưa cộng đồng tham gia
ngay từ khi bắt đầu dự án.
Thứ hai, sử dụng phương pháp kết hợp đồng
bộ với nâng cấp đô thị, đó là hiệp lực cải tạo
đường vào, hệ thống thoát nước, vệ sinh và
quản lý rác thải. Chúng tôi đã lưu tâm giải
quyết bốn vấn đề trên theo phương thức kết
hợp đồng bộ. Hệ thống cống xây mới có nắp
bê tông để giữ vệ sinh cống và không cho xả
rác bừa bãi xuống cống. Đường hẻm được bê
tông hóa để đi lại được dễ dàng và không bị
sình lầy trong mùa mưa. Điều này cũng hỗ
trợ cho công tác thu gom rác bằng xe đẩy tay
được tốt hơn. Một lợi ích khác trong việc nâng
cấp hẻm là tạo đường vào dễ dàng cho xe cứu
thương và xe chữa cháy khi cần thiết.
XÂY DỰNG MÔ HÌNH QUẢN LÝ VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG DỰA VÀO
CỘNG ĐỒNG Ở THỊ XÃ VỊ THANH, TỈNH HẬU GIANG
14
Chương trình Quy hoạch Môi trường Đô thị Việt Nam
Kinh nghiệm và bài học từ các Dự án tài trợ nhỏ
Dự án Hậu Giang là một trong 10 dự án nhỏ được Chương trình Quy hoạch Môi trường đô thị Việt Nam
(UEPP-VN) hỗ trợ. Đây là Chương trình được tài trợ bởi Ủy ban Châu Âu và do Bộ Xây dựng thực hiện. Để
biết thêm thông tin, xin vui lòng vào trang web: www.uepp.org, www.acvn.vn hoặc email
Hệ thống cống và đường đã hoàn chỉnh
Thứ ba, chúng tôi hướng vào đối tượng hộ
nghèo và hỗ trợ họ cơ sở vệ sinh phù hợp trong
điều kiện họ không có khả năng tài chính để
tự xây dựng. Mặc dù chỉ có một số ít hộ được
hưởng lợi trực tiếp, nhưng cũng có nhiều hộ
cũng được hưởng lợi gián tiếp thông qua việc
giảm các khả năng gây bệnh về đường ruột
qua đường lây lan trực tiếp, nước bị ô nhiễm,
ruồi và đồ ăn bị nhiễm bẩn.
Thứ tư, chúng tôi tạo cân bằng cải tạo hạ tầng
và sự tham gia của cộng đồng. Chúng tôi nhận
thấy rằng các cán bộ kỹ thuật không thể quy
hoạch, thiết kế và thực hiện các dự án thoát
nước, hạ tầng và vệ sinh nếu không có sự phối
hợp chặt chẽ với cộng đồng. Chẳng hạn như
nếu hộ dân không kết nối với hệ thống thoát
nước mới, các lợi ích về sức khỏe của hệ thống
cống mới này mang lại cho tất cả người dân
là rất hạn chế.
Và cuối cùng, chúng tôi đã tổ chức rất nhiều
cuộc họp cộng đồng để đạt được các thỏa
thuận về cách làm như thế nào để duy trì và
giữ môi trường sạch sẽ. Bên cạnh các cuộc
họp, chúng tôi cũng đã đến từng hộ gia đình
để thảo luận với họ về vấn đề đó. Một buổi lễ
lớn đã được tổ chức vào ngày 19 tháng 5 năm
2008 để ký một thỏa thuận được gọi là các
qui định cộng đồng giữa Ban liên hiệp và cộng
đồng. Việc ban hành các qui định này được
thực hiện ngay sau đó bởi một quyết định của
UBND phường 4.
Tính bền vững và kế hoạch trong tương
lai
Công tác vận hành và bảo dưỡng các công
trình hạ tầng của dự án sẽ được thực hiện bởi
UBND phường 4. Người dân đã đồng ý thực
hiện theo Quy ước cộng đồng. Hội Phụ nữ và
Đoàn Thanh niên sẽ tiếp tục các hoạt động
nâng cao nhận thức về vệ sinh môi trường.
Về khả năng mở rộng dự án, Ban liên hiệp đã
đề xuất các dự án tương tự cho 5 địa điểm
khác ở trong thị xã và các huyện khác. Các
dự án đề xuất này sẽ thừa hưởng các bài học
kinh nghiệm từ dự án này. Chúng tôi cũng đã
gởi các đề xuất này đến UBND thị xã Vị Thanh.
Quá trình vẫn đang được thực hiện, và chúng
tôi chưa tìm thấy nguồn kinh phí nào để thực
hiện các dự án nhưng hy vọng với các thành
quả đã đạt được từ các dự án tài trợ nhỏ có thể
thuyết phục được các nhà tài trợ và các cộng
đồng địa phương đóng góp.
Một số thống kê cơ bản
Tổng giá trị
dự án:
€331.706 (90% tài trợ của Ủy
ban Châu Âu; 10% đối ứng địa
phương)
Số người
hưởng lợi:
250 hộ Phường 4 Thị xã Vị Thanh
Ban quản lý
dự án
Sở Tài nguyên & Môi trường (lãnh
đạo Ban liên hiệp), Công ty Cấp
nước và Công trình công cộng,
Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên,
Phòng Tài nguyên và Môi trường
thị xã, Khoa Tài nguyên và Môi
trường trường Đại học Cần Thơ
Liên hệ: Ông Nguyễn Văn Huyền
Trưởng Ban liên hiệp – Sở TN&MT Tỉnh Hậu Giang
Khu hành chính 406 Trần Hưng Đạo, P. 5,
TX. Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang
Tel: 0711.3878894 – Fax: 0711.3878895
15
Chương trình Quy hoạch Môi trường Đô thị Việt Nam
Kinh nghiệm và bài học từ các Dự án tài trợ nhỏ
Dự án Kiên Giang là một trong 10 dự án nhỏ được Chương trình Quy hoạch Môi trường đô thị Việt Nam
(UEPP-VN) hỗ trợ. Đây là Chương trình được tài trợ bởi Ủy ban Châu Âu và do Bộ Xây dựng thực hiện. Để
biết thêm thông tin, xin vui lòng vào trang web: www.uepp.org, www.acvn.vn hoặc email
Khởi đầu từ tháng 12 năm 2006 và hoàn tất
vào tháng 03/2009, dự án “Xây dựng mô hình
thí điểm hệ thống quản lý chất thải rắn đô
thị cho thành phố Rạch Giá trên cơ sở phân
loại rác tại nguồn có sự tham gia của cộng
đồng” được xây dựng nhằm giúp cải thiện môi
trường phường Vĩnh Bảo là phường trọng điểm
thuộc thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Bà
Võ Thị Vân, Trưởng ban liên hiệp Dự án tài trợ
cùng chia sẻ về dự án.
Chúng tôi có lẽ phải làm một điều gì đối với
những vấn đề chất thải rắn đang phát sinh.
Đường phố ngày càng bẩn hơn, thành phố của
chúng tôi trở nên kém thu hút hơn. Trong khi
chúng ta ngày một sản sinh ra nhiều rác hơn,
các bãi rác của chúng ta bị quá tải, và chúng
ta không quản lý kịp. Hậu quả đi liền là người
dân sống ở các khu vực lân cận dễ mắc bệnh.
Đây là vấn đề nghiêm trọng nhất ở một
phường trọng điểm như Vĩnh Bảo. Nơi đây có
hơn 20.000 dân cư sinh sống thuộc 4.000 hộ
gia đình, và khoảng 5% dân sống kề với các
con kênh rạch.
Sau khi xem xét kỹ vấn đề này, chúng tôi
nhận thấy khoảng 30% rác thải không được
thu gom, và dọc các con sông con số này là
tới 90%. Chỉ một số ít người nhận thức tốt về
môi trường, và thậm chí rất ít người quan tâm
tới việc bảo vệ môi trường. Và khi chúng tôi
nỗ lực nhận dạng một địa điểm bãi rác mới
phù hợp, chúng tôi thấy hầu hết các địa điểm
không đạt được các tiêu chí luật môi trường
mới.
Quá trình thực hiện
Từ thực tế đó, chúng tôi đã thiết kế một dự án
thí điểm với mục tiêu nâng cao nhận thức về
môi trường của người dân, đưa họ tham gia
vào hoạt động phân loại rác tại nguồn, thu
gom rác rác theo hướng hiệu quả hơn, sản
xuất phân phân vi sinh và sau đó sử dụng làm
phân bón. Theo đó rác hữu cơ sẽ không đổ ra
bãi rác, do vậy sẽ giúp kéo dài tuổi thọ của bãi
rác hơn. Bên cạnh đó, khi không có rác hữu
cơ, phần rác vô cơ còn lại sẽ dễ dàng được tái
chế hơn.
Tuy nhiên, việc thực hiện dự án là không dễ
dàng. Sau khi chúng tôi thành lập Ban quản lý
dự án, chúng tôi đã tổ chức tập huấn cho các
thành viên thuộc Hội liên hiệp phụ nữ phường
và Đoàn thanh niên thành các tuyên truyền
viên tham gia giao tiếp với các cộng đồng địa
phương và khuyến khích cộng đồng tham gia
dự án.
Sau đó chúng tôi tiến hành mẫu khảo sát
khoảng 1.000 hộ gia đình để nhận định mức
độ nhận thức về các vấn đề môi trường, khối
lượng và đặc thù rác thải, tình hình kinh tế xã
hội, và lịch trình thu gom rác quen thuộc.
Trên cơ sở những thông tin này, chúng tôi thiết
kế các tuyến đường thu gom rác và chuẩn bị
thiết kế xưởng ủ phân vi sinh, và hiện tại phân
xưởng này đang hoạt động. Chúng tôi cũng
tập huấn các cán bộ URENCO nâng cao kiến
thức kỹ năng chuyên môn về xử lý phân vi
sinh.
Rác thải không được thu gom vứt bừa bãi ở ven đường
Cùng hợp tác với các cơ quan chính quyền
phường, chúng tôi tổ chức một loạt các cuộc
họp với cộng đồng. Tại các cuộc họp này,
chúng tôi phát cho mỗi hộ gia đình hai thùng
đựng rác để phân loại rác hộ gia đình mình.
Hơn 85% số hộ cam kết tham gia.
Hàng ngày, chúng tôi đưa ra quyết định thu
gom cả hai loại rác. Tại các điểm nhận rác quy
định dọc theo các tuyến phố, rác được chuyển
từ xe đẩy nhỏ lên xe tải và chuyển tới bãi rác.
Vướng mắc và khó khăn trong quá trình
thực hiện
Chúng tôi đã từng đối mặt và hiện đang đối
mặt với rất nhiều thách thức trong việc thu
gom và phân loại rác tại nguồn. Thách thức
lớn nhất là chỉ khoảng 30% hộ gia đình thực
sự phân loại đúng nguồn rác tại nhà. Nhiều
hộ gia đình không sử dụng thùng rác do dự
án cung cấp và cho rằng nhà họ chật để cùng
lúc giữ hai thùng rác. Những hộ khác thì cho
rằng người thu gom rác không làm theo đúng
lịch trình quy định. Còn có hộ chỉ ra là công
nhân thu gom rác không đặt các xe nhỏ hay
xe tải đúng chỗ. Cuối cùng, nhiều hộ, nhất là
những hộ sinh sống dọc ven sông, vẫn xả rác
bừa bãi.
MÔ HÌNH THÍ ĐIỂM HỆ THỐNG QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN DỰA
VÀO CỘNG ĐỒNG Ở THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ
16
Chương trình Quy hoạch Môi trường Đô thị Việt Nam
Kinh nghiệm và bài học từ các Dự án tài trợ nhỏ
Dự án Kiên Giang là một trong 10 dự án nhỏ được Chương trình Quy hoạch Môi trường đô thị Việt Nam
(UEPP-VN) hỗ trợ. Đây là Chương trình được tài trợ bởi Ủy ban Châu Âu và do Bộ Xây dựng thực hiện. Để
biết thêm thông tin, xin vui lòng vào trang web: www.uepp.org, www.acvn.vn hoặc email
Chúng tôi cũng đã đối mặt với nhiều khó
khăn khi thực hiện xưởng ủ phân vi sinh. Ví
dụ, chúng tôi đã dự định đặt xưởng ủ phân
vi sinh ở Hòn Đất, chúng tôi đã tiến hành thử
nghiệm ủ phân vi sinh tại đó, nhưng đường
liên thông đến khu vực đó lại chưa có. Sau đó,
chúng tôi đã tìm được một vị trí mới tại huyện
Châu Thành, nhưng phải thay đổi thiết kế từ
xưởng ủ kỵ khí sang hiếu khí bởi vì Tư vấn nói
rằng quá trình phân hủy kỵ khí có thể sinh ra
khí Mê tan (khí gây ra hiệu ứng nhà kính) và
không dễ dàng để kiểm soát được sự sinh ra
khí này.
Bài học kinh nghiệm
Cho đến nay, dự án của chúng tôi trải qua
nhiều “bài học có ý nghĩa”. Một trong số đó là
quá trình tham gia của cộng đồng. Đầu tiên
chúng tôi truyền đạt đến người dân về cách
làm như thế nào dự án có thể cải thiện các
điều kiện sống của họ. Sau đó, Ban liên hiệp,
chính quyền địa phương và đại diện các hộ gia
đình cùng ký vào một thỏa thuận về cách sử
dụng và duy trì các thùng rác như thế nào.
Sau khi dự án kết thúc, UBND phường Vĩnh
Bảo đã củng cố thỏa thuận để trở thành một
quy định về phân loại rác tại hộ gia đình.
Một bài học kinh nghiệm khác của chúng tôi là
sự nỗ lực mạnh mẽ để đạt được các sự đóng
góp của cộng đồng cho dự án. Chúng tôi đã
kêu gọi được chính quyền tỉnh trích 1,6 tỷ
đồng Việt Nam (tương đương €64.000) bằng
tiền mặt từ ngân sách tỉnh cho các vấn đề bảo
vệ môi trường, cũng như 300 côngtenơ rác
công cộng sử dụng dọc khu bãi biển. Huyện
Châu Thành cũng cấp 2.000 m2 để làm xưởng
ủ phân vi sinh, và huyện Hòn Đất cấp 3.000
m2 để ủ rơm vi sinh.
Tính bền vững và kế hoạch tương lai
Dự án đã hoàn thành vào tháng 3/2009. Tiếp
sau đó, Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành
sẽ tiếp tục đảm trách việc thu gom rác, vận
hành và duy trì xưởng sản xuất phân vi sinh,
đồng thời sử dụng ngân sách giao từ tỉnh.
Xưởng ủ rơm vi sinh sẽ tiếp tục theo dự án
URENCO huyện Hòn Đất. Theo dự kiến, sáng
kiến phân loại rác sẽ được áp dụng ở các quận
huyện khác.
Xưởng ủ phân vi sinh tại Huyện Châu Thành
Một số thống kê cơ bản
Tổng giá trị
dự án:
€265.011 (89% tài trợ từ Châu
Âu; 11% đóng góp chính phủ Việt
Nam); €58.524 đóng góp bằng
hiện vật từ các đối tác địa phương
và cộng đồng.
Số người
hưởng lợi:
Phân loại rác: 3.947 hộ gia đình
(khoảng 20.000 người dân)
Ban quản lý
dự án
Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh
Kiên Giang (Trưởng ban liên hiệp)
Ủy ban nhân dân phường Vĩnh
Bảo, Công ty Công trình đô thị
tỉnh Kiên Giang, Hội liên hiệp phụ
nữ phường Vĩnh Bảo, Tỉnh đoàn
Kiên Giang, Ủy ban nhân dân
huyện Châu Thành
Liên hệ: Bà Võ Thị Vân
Trưởng Ban liên hiệp – Sở TN&MT Kiên Giang
Số 1226A Nguyễn Trung Trực, phường An Bình,
TP. Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang
Tel: 077.3913777 – Fax: 077.3910804
17
Chương trình Quy hoạch Môi trường Đô thị Việt Nam
Kinh nghiệm và bài học từ các Dự án tài trợ nhỏ
Dự án Long An là một trong 10 dự án nhỏ được Chương trình Quy hoạch Môi trường đô thị Việt Nam
(UEPP-VN) hỗ trợ. Đây là Chương trình được tài trợ bởi Ủy ban Châu Âu và do Bộ Xây dựng thực hiện. Để
biết thêm thông tin, xin vui lòng vào trang web: www.uepp.org, www.acvn.vn hoặc email
Đây là câu chuyện mà Ông Trần Kim Lân,
Trưởng Ban liên hiệp tự hào chia sẻ về thực
hiện dự án ở đô thị của mình.
Vào đầu năm 2006, một số ít người dân ở
thị xã Tân An quyết định làm một việc gì đó
trong vấn đề rác thải ngày càng phát sinh.
Khu bãi rác của chúng tôi đều quá tải, và quản
lý lỏng lẻo. Hơn nữa, khu bãi rác lại quá gần
với khu vực dân cư tập trung. Các chuyên gia
đã khuyên chúng tôi đóng cửa bãi rác và xây
dựng một khu bãi rác mới. Nhưng họ cũng
khuyên chúng tôi rằng để có thể xây dựng
được một bãi chôn lấp rác trong tương lai khả
thi về mặt kinh tế, chúng tôi cần giảm khối
lượng rác thải ở mức độ nào đó qua việc tái
chế rác và các phương pháp khác như phân
loại rác tại nguồn.
Quá trình thực hiện
Với nguồn tài trợ từ Chương trình QHMTĐT-
VN, chúng tôi đã thiết kế thí điểm dự án phân
loại rác tại nguồn để giải quyết các vấn đề này
ở thị xã Tân An.
Hiện trạng chôn lấp rác thải
Chúng tôi tự hào về rất nhiều các thành quả
đạt được. Đầu tiên, chúng tôi đã nâng cao nhận
thức về môi trường nói riêng là liên quan
đến các hoạt động phân loại rác tại nguồn
của những người dân đang sinh sống, làm việc
và đi học ở 4 phường trung tâm của Thị xã Tân
An. Chúng tôi đã tiếp cận được khoảng 30.000
hộ gia đình, hoặc khoảng 120.000 người, bao
gồm 60.000 phụ nữ và 27.000 trẻ em. Các
hoạt động đa dạng để nâng cao nhận thức
của chúng tôi bao gồm: phân phát các tài liệu
được in ấn như tờ rơi, băng rôn, biển quảng
cáo, và các sổ tay dự án; các thông điệp và
các chương trình thông qua các phương tiện
truyền thông đại chúng như radio và truyền
hình; các bài báo trên các tờ báo và bản tin
Xây dựng Long An; các trò chơi đố vui và thi
đấu ở các trường tiểu học và trung học; và các
cuộc diễu hành đường phố. Chúng tôi cũng đã
thực hiện 19 khóa tập huấn cho các cộng tác
viên của dự án, soạn thảo các qui định tại địa
phương cho việc phân loại rác tại nguồn và đã
đạt được sự cam kết của 7.175 hộ gia đình,
178 các công ty tư nhân, các cơ quan chính
quyền và 5 trường học.
Về phương diện vật chất, chúng tôi đã mua
và phân phát 19.000 thùng rác hộ gia đình
hai màu cộng với 181 thùng rác công cộng
hai màu, và chúng tôi cũng đã mua 19 xe ba
gác để thu gom rác ở những hẻm nhỏ. Chúng
tôi đã xây dựng một xưởng ủ phân vi sinh với
công suất 3 tấn rác hữu cơ một ngày.
Chúng tôi đã nâng cao năng lực cho Công
ty Công trình công cộng và cũng thực hiện
nâng cao năng lực cho chính chúng tôi. Năng
lực của Công ty này được củng cố thông qua
chương trình tập huấn, cung cấp thiết bị và
cải tiến lịch trình và tuyến đường thu gom rác.
Với sự hỗ trợ của dự án, họ cũng đã thiết lập
được một kế hoạch chi tiết cho việc đóng cửa
và tái phục hồi bãi rác hiện tại. Công ty hiện
có khả năng thu gom khoảng 5 tấn/ngày và ủ
phân vi sinh khoảng 3 tấn/ngày. Năng lực làm
việc và quản lý của các thành viên Ban liên
hiệp đã được xây dựng thông qua các khóa
đào tạo chính thức và đào tạo tại chỗ (thông
qua công việc).
Vướng mắc và khó khăn khi thực hiện
Chúng tôi cũng đã đối mặt với nhiều khó khăn
trong quá trình thực hiện; một số khó khăn
đã vượt qua, một số khó khăn khiến chúng
tôi phải thay đổi kế hoạch. Chúng tôi đã dự
định đóng cửa và phục hồi khu bãi rác Lợi
Bình Nhơn hiện tại. Kế hoạch là di chuyển hầu
hết rác ra ngoài, dùng rác làm phân bón, xây
dựng vườn ươm cây ở đó, và cải thiện môi
trường cho 25 hộ gia đình sống xung quanh
khu bãi rác này. Tuy nhiên, nghiên cứu chúng
tôi đã cho thấy rằng rác có chứa một lượng lớn
kim loại nặng và do đó không thể dùng làm
phân bón hoặc để hỗ trợ cho vườn ươm cây
ở đó. Hơn nữa, kinh phí cho việc vận chuyển
rác ra ngoài vượt xa ngân sách của chúng tôi.
Do đó, chúng tôi quyết định chỉ chuẩn bị mặt
bằng hơn là khôi phục lại bãi rác. Chúng tôi
cũng đưa vào kế hoạch nhân rộng thí điểm tới
12 phường và khu phố trong giai đoạn thực
hiện. Tuy nhiên, ngân sách mua thùng rác cho
hộ gia đình vượt quá ngân sách kế hoạch. Do
vậy, chúng tôi phải giảm phạm vi xuống còn
4 phường.
Trong thời gian thử nghiệm phân loại rác ban
đầu, chúng tôi nhận thấy rằng 80% hộ gia đình
đã phân loại rác đúng. Gần đây hơn, chúng tôi
chỉ thấy có 30% hộ gia đình ở Phường 1 làm
được như vậỵ. Chúng tôi đã nhận ra rằng phải
liên tục lặp lại các hoạt động nâng cao nhận
thức và thúc đẩy để đảm bảo một tỷ lệ cao
các hộ gia đình tham gia vào phân loại rác
tại nguồn. Khởi đầu, chúng tôi quyết định thu
gom rác 5 lần/tuần: 2 lần là gom rác vô cơ và
3 lần gom rác hữu cơ. Nhưng sau đó chúng tôi
PHÂN LOẠI RÁC TẠI NGUỒN, CẢI TẠO VÀ PHỤC HỒI BÃI RÁC
HIỆN HỮU TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ TÂN AN, TỈNH LONG AN
18
Chương trình Quy hoạch Môi trường Đô thị Việt Nam
Kinh nghiệm và bài học từ các Dự án tài trợ nhỏ
Dự án Long An là một trong 10 dự án nhỏ được Chương trình Quy hoạch Môi trường đô thị Việt Nam
(UEPP-VN) hỗ trợ. Đây là Chương trình được tài trợ bởi Ủy ban Châu Âu và do Bộ Xây dựng thực hiện. Để
biết thêm thông tin, xin vui lòng vào trang web: www.uepp.org, www.acvn.vn hoặc email
phát hiện một số hộ gia đình đã cho sai loại
rác vào ngày quy định. Vì vậy, chúng tôi thay
đổi lịch trình thu gòm: 6 ngày thu gom rác
hữu cơ và 1 ngày thu gom rác vô cơ (Thứ 7).
Dự án ban đầu của chúng tôi là không xây
dựng xưởng ủ phân vi sinh. Chúng tôi đã làm
thêm sau đó theo tư vấn của chuyên gia và vì
người dân sẽ có nhiệt tình phân loại rác hơn
nữa nếu như họ thấy xưởng ủ phân vi sinh đi
vào hoạt động (rác phân loại được dùng làm
phân vi sinh và sử dụng).
Chúng tôi đã quyết định chọn quá trình phân
hủy kỵ khí để xử lý rác và thu khí đốt sinh
học ở các khoang dưới đất, nhưng đã chuyển
sang dùng quá trình phân hủy hiếu khí sau
khí biết được các chi phí và rủi ro lớn hơn của
các kết cấu ngầm trong một khu vực có mực
nước cao.
Theo mong muốn, chúng tôi lập kế hoạch về
một xưởng ủ phân vi sinh công suất lớn, nhưng
chúng tôi phải giảm công suất xuống 03 tấn/
ngày do nguồn ngân sách hạn chế, địa điểm
xây dựng xưởng nhỏ, và sự bấp bênh của thị
trường phân vi sinh. Nhưng điều này có nghĩa
là hầu hết rác thu gom được từ 4 khu vực của
phường dự án sẽ không được đưa vào xử lý.
Bài học kinh nghiệm
Chúng tôi tự hào khi nói về hai bài học hay có
được từ dự án. Trước tiên, Ban quản lý dự án
của chúng tôi là một ban liên hiệp có nhiều ban
ngành đoàn thể tham gia, gồm các cơ quan kỹ
thuật chuyện môn, các tổ chức đoàn thể xã
hội, và các tổ chức cộng đồng. Chúng tôi nhận
thấy một ban liên hiệp với nhiều thành viên
tham gia như vậy khuyến khích sự tham gia
đa dạng, tăng cường mối quan hệ lẫn nhau và
cải thiện sự hiểu biết giữa các thành viên. Điều
này dẫn tới những quyết định hiệu quả và đầy
đủ, bổ sung được những điểm mạnh cũng như
yếu của các thành viên chúng tôi, và tạo điều
kiện tiếp cận với cán bộ từ nhiều ngành nghề
khác nhau.
Thứ hai, là chúng tôi đã kêu gọi được những
đóng góp bằng hiện vật từ các bên liên quan.
Ví dụ nêu ra ở đây là chúng tôi được một công
ty tư nhân đóng góp đất để làm xưởng ủ phân
vi sinh, đưa xưởng vào vận hành trong thời
gian dự án, và đảm nhận vai trò tự sở hữu sau
khi dự án kết thúc.
Để duy trì và giữ vững những thành quả đạt
được từ dự án, các cộng đồng của 4 phường
trong dự án đã ký cam kết với các chính quyền
địa phương trong việc bảo vệ và cải thiện môi
trường. Mỗi UBND phường cũng đã ban hành
các quy định về bảo vệ môi trường. Dựa vào
đó, UBND thị xã đã ban hành các quy định cho
toàn thị xã.
Xưởng ủ phân vi sinh
Tính bền vững và kế hoạch tương lai
Hiện tại dự án đã kết thúc, thị xã Tân An quyết
tâm duy trì và nhân rộng việc phân loại rác tại
nguồn. Chúng tôi dự định sẽ huy động ngân
sách từ các đơn vị tư nhân, các cơ quan, cộng
đồng và nhân rộng dự này ra 15 thị trấn trong
tỉnh Long An.
Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Long An cũng cam
kết tiếp tục nâng cao nhận thức phân loại
rác tại nguồn. Sử dụng ngân sách của Sở Tài
nguyên Môi trường tỉnh Long An thực hiện
nâng cao nhận thức cộng đồng và hướng dẫn
phụ nữ trong hộ gia đình phân loại rác ở 6
quận/huyện trung tâm.
Việc vận hành và bảo dưỡng xưởng ủ phân
vi sinh hiện nay sẽ do UBND thị xã Tân An.
Kế hoạch đóng cửa bãi rác hiện hữu đã được
duyệt và sẽ do Sở TNMT thực hiện bằng ngân
sách tỉnh.
Một số thống kê cơ bản
Tổng giá trị
dự án:
351.200 ơ-rô (90% tài trợ từ
Châu Âu; 10 đóng góp chính từ
địa phương và những đối tượng
hưởng lợi trực tiếp); 30.400 ơ-rô
đóng góp bằng hiện vật từ các đối
tác địa phương và cộng đồng.
Số người
hưởng lợi:
12.737 hộ gia đình (khoảng
64.000 người dân)
Ban quản lý
dự án
Sở Xây dựng tỉnh Long An
(Trưởng BLH), Ủy ban nhân dân
Thị xã Tân An, Ủy ban nhân dân
6 phường và 6 xã, Sở Tài nguyên
MT tỉnh Long An, Công ty Công
trình ĐT thị xã Tân An, Tỉnh đoàn,
Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh, Viện Tài
nguyên và môi trường, Trung tâm
KT Quy hoạch ĐT-NT
Liên hệ: Ông Trần Kim Lân
Trưởng Ban liên hiệp – Sở Xây Dựng
Số 19 Trần Hưng Đạo, phường 1,
TX. Tân An, tỉnh Long An
Tel: 072.3826169 – Fax: 072.3824746
19
Chương trình Quy hoạch Môi trường Đô thị Việt Nam
Kinh nghiệm và bài học từ các Dự án tài trợ nhỏ
Dự án Sóc Trăng là một trong 10 dự án nhỏ được Chương trình Quy hoạch Môi trường đô thị Việt Nam
(UEPP-VN) hỗ trợ. Đây là Chương trình được tài trợ bởi Ủy ban Châu Âu và do Bộ Xây dựng thực hiện. Để
biết thêm thông tin, xin vui lòng vào trang web: www.uepp.org, www.acvn.vn hoặc email
Bắt đầu từ tháng 12/2006 và hoàn thành vào
tháng 03/2009, dự án “Cải tạo hạ tầng – Vệ
sinh môi trường khu dân cư Khóm 2, Phường
3, thành phố Sóc Trăng” được thực hiện
nhằm cải thiện các điều kiện môi trường. Ông
Nguyễn Minh Hoàng, Điều phối viên của dự án
mô tả về dự án như sau:
Khóm 2 Phường 3 là một trong những khu dân
cư đông dân, nghèo, ít dịch vụ và nhiều khó
khăn trong vệ sinh môi trường nhất ở thành
phố Sóc Trăng. Nhà cửa xây dựng không đồng
nhất, không có quy hoạch và lấn chiếm đất
công. Nhiều hộ nghèo không có hầm tự hoại
trong nhà. Đường hẻm nhỏ nên xe rác đẩy tay
khó đi vào để thu gom rác. Rác không được
thu gom được xả xuống và thường làm làm
tắc nghẽn các cống hở. Các cống này đảm
nhận thoát nước mưa và nước thải đang trong
tình trạng bị hư hỏng làm nghẽn dòng chảy
của nước. Và các cống bị nghẽn, cùng với tình
trạng đất trũng thấp trong khu vực, gây nên
úng ngập thường xuyên. Và nước úng ngập
này, có mùi hôi và bị nhiễm bẩn cùng với chất
thải sinh hoạt của người dân, thường xuyên
tạo vũng nước đọng trong thời gian dài tạo
môi trường thuận lợi phát sinh muỗi và các
sinh vật gây bệnh khác. Thêm vào đó các con
hẻm thường không đi được vào mùa mưa.
Dự án của chúng tôi chưa giải quyết hết những
vấn đề này nhưng cũng đã đạt được cải thiện
to lớn. Cụ thể là dự án đã (i) cải tạo môi trường
vật chất thông qua đường vào, hệ thống thoát
nước và hạ tầng vệ sinh được cải thiện; (ii)
dịch vụ thu gom rác được cải thiện; (iii) nhận
thức của cộng đồng về vệ sinh môi trường đô
thị được nâng lên; và (iv) năng lực của các cán
bộ địa phường về các vấn đề môi trường đô thị
được nâng cao.
Quá trình thực hiện
Dưới đây là một số hoạt động chính của dự án.
Đầu tiên, chúng tôi lập quy hoạch cải tạo chi
tiết và thiết kế kỹ thuật cho tất cả các hạng
mục hạ tầng; sau đó chúng tôi tổ chức lấy ý
kiến và sự đồng thuận của người dân và chính
quyền địa phương trong khu vực dự án. Tiếp
theo sau đó, chúng tôi bắt đầu tiến hành thu
gom rác trong hẻm và khơi thông cống. Tiếp
theo sau là công tác lựa chọn đội ngũ cộng
tác viên từ cộng đồng, tập huấn cộng tác viên
và bắt đầu các hoạt động nâng cao nhận thức
cộng đồng và tiến hành vận động người dân
đồng ý phương án dời phần hàng rào trước nhà
để mở rộng hẻm. Ban liên hiệp cũng tổ chức
các chuyến tham quan đến các dự án tương tự
cho cán bộ và người dân trong khu vực dự án
để khuyến khích sự tham gia và đóng góp của
cộng đồng. Cuối cùng là hoạt động soạn thảo
và bắt đầu đưa vào áp dụng Quy ước cộng
đồng cho vận hành và bảo dưỡng.
Mương thoát nước bị tắt nghẽn bởi rác trước dự án
Vướng mắc và khó khăn khi thực hiện
Dự án có những thử thách mà từ đó chúng tôi
rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm.
Thứ nhất, chúng tôi nhận thấy rằng toàn bộ
quy trình làm việc với cộng đồng trong đó có
công tác tham vấn, vận động sự đồng thuận
của cộng đồng mất nhiều thời gian hơn dự
tính. Lúc đầu người dân còn nghi ngờ vì đã
nghe nhiều hứa hẹn về cải tạo khu vực như
thế trước kia. Để giải quyết vấn đề này, đội
ngũ tuyên truyền viên, phần lớn là hội viên
Hội phụ nữ, đã dành nhiều thời gian để đến
từng nhà để giải thích và thuyết phục. Ban liên
hiệp cũng đưa nhiều hộ tham gia chuyến tham
quan một dự án ở tỉnh bạn để trực tiếp nhìn
thấy cách thức cộng đồng đóng góp vào công
tác cải tạo vệ sinh môi trường.
Thứ hai, chúng tôi học được kinh nghiệm là
nhiều vấn đề có thể ảnh hưởng đến tiến độ
thực hiện trong đó có các thủ tục hành chính
và tài chính và cả vấn đề thời tiết không thuận
lợi.
Bài học kinh nghiệm
Chúng tôi rất tự hào về một số kinh nghiệm
tốt đã có được từ dự án.
Đầu tiên đó là từ khi bắt đầu thực hiện dự án,
Ban liên hiệp đã đưa người dân địa phương
tham gia vào dự án thông qua các buổi họp
lấy ý kiến cộng đồng. Sau một số cuộc họp
như thế, hầu hết các hộ gia đình đều đồng ý tự
nguyện dỡ bỏ phần hàng rào trước nhà và có
vài trường hợp là một phần cấu trúc của nhà
để mở rộng hẻm từ 2m lên 4m. Điều này được
hiểu rằng các hộ sẽ không nhận được đền bù
CẢI THIỆN HẠ TẦNG VÀ VỆ SINH MÔI TRƯỜNG Ở KHÓM 2,
PHƯỜNG 3, THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG
20
Chương trình Quy hoạch Môi trường Đô thị Việt Nam
Kinh nghiệm và bài học từ các Dự án tài trợ nhỏ
Dự án Sóc Trăng là một trong 10 dự án nhỏ được Chương trình Quy hoạch Môi trường đô thị Việt Nam
(UEPP-VN) hỗ trợ. Đây là Chương trình được tài trợ bởi Ủy ban Châu Âu và do Bộ Xây dựng thực hiện. Để
biết thêm thông tin, xin vui lòng vào trang web: www.uepp.org, www.acvn.vn hoặc email
cho phần dỡ bỏ đó.
Thứ hai là chúng tôi sử dụng phương pháp kết
hợp đồng bộ với nâng cấp đô thị, đó là hiệp
lực cải tạo đường vào, hệ thống thoát nước, vệ
sinh và quản lý rác thải. Chúng tôi đã lưu tâm
giải quyết bốn vấn đề trên theo phương thức
kết hợp đồng bộ. Hệ thống cống thoát được
ngăn không bị nghẽn rác bằng thiết kế có nắp
bê tông và thiết lập và đẩy mạnh dịch vụ thu
gom rác hiệu quả. Hệ thống cống thoát được
phối hợp với việc cải thiện đường vào các con
hẻm. Cả hai hoạt động này đều cải thiện hệ
thống thoát nước mặt trong hẻm (tránh tình
trạng sình lầy trong mùa mưa) và hỗ trợ cho
công tác thu gom rác bằng xe đẩy tay (dễ đẩy
hơn trên mặt đường bằng phẳng). Một lợi ích
khác nữa trong việc mở rộng hẻm là xe chữa
cháy và xe cứu thương có thể vào hẻm trong
trường hợp cần thiết.
Thứ ba là chúng tôi đã tăng khả năng thấm
nước mưa bằng cách lưu giữ diện tích bề mặt
xanh và có khả năng thấm nước để nước mưa
có thể thấm vào đất. Việc này đã làm giảm
nhu cầu cần có hệ thống cống thoát lớn hơn và
thực tế là càng nhiều nước thấm vào đất, càng
ít nước chảy vào cống trong mùa mưa. Điều
này cũng cải thiện các điều kiện vệ sinh, bởi
vì khi cống bị đầy tràn thì sẽ thành nước thải.
Thứ tư, chúng tôi hướng vào đối tượng hộ ng-
hèo và hỗ trợ họ cơ sở vệ sinh phù hợp trong
điều kiện họ không có khả năng tài chính để
tự xây dựng. Mặc dù chỉ có một số ít hộ được
hưởng lợi trực tiếp, nhưng cũng có nhiều hộ
cũng được hưởng lợi gián tiếp thông qua việc
giảm các khả năng gây bệnh về đường ruột
qua đường lây lan trực tiếp, nước bị ô nhiễm,
ruồi và đồ ăn bị nhiễm bẩn.
Hẻm được mở rộng, đổ bê tông có cống thoát nước ở dưới
Thứ năm, chúng tôi bảo đảm hệ thống thu
gom rác được thực hiện thường xuyên và tiện
lợi. Do đó chúng tôi đã mua sắm và đặt đủ số
thùng rác công cộng và tiến hành thu gom
trước khi thùng đầy.
Thứ sáu là chúng tôi tạo cân bằng trong sự
tham gia của cộng đồng và kỹ thuật. Thành
công trong cải tạo điểu kiện sống của khu dân
cư thông qua việc cung cấp hạ tầng và dịch vụ
tốt hơn đòi hỏi sự hỗ trợ nhiệt tình của cộng
đồng. Điều này có nghĩa là các cán bộ kỹ thuật
không thể làm quy hoạch, thiết kế và thực
hiện các dự án thoát nước, hạ tầng và vệ sinh
nếu không có sự phối hợp chặt chẽ với người
dân địa phương. Nếu hộ dân không đấu nối
với hệ thống thoát nước mới, các lợi ích về sức
khỏe của hệ thống cống mới này mang lại cho
tất cả người dân là rất hạn chế.
Tính bền vững và kế hoạch tương lai
UBND Phường 3 đang vận hành và bảo dưỡng
các công trình hạ tầng của dự án. Ban nhân
dân Khóm 2 và UBND Phường 3 có kế hoạch
thể chế hóa và thực hiện quy ước cộng đồng.
Các hoạt động cộng đồng sẽ được Hội phụ nữ
và Đoàn thành niên tiếp tục thực hiện nhằm
nâng cao nhận thức về vệ sinh môi trường.
Dựa trên dự án này Ban liên hiệp đã đề nghị
UBND Thành phố Sóc Trăng nhân rộng ở các
khu vực khác trong Thành phố.
Một số thống kê cơ bản
Tổng giá trị
dự án:
€305.472 (90% tài trợ của Ủy
ban Châu Âu; 10% đối ứng của
địa phương); €55.575 đóng góp
khác ngoài cam kết trong Hợp
đồng tài trợ từ các đối tác địa
phương
Số người
hưởng lợi:
2.227 người dân ở 426 hộ gia
đình bao gồm 67 hộ nghèo được
hỗ trợ nhà vệ sinh và hầm tự
hoại; một số hộ ngay cạnh khu
vực dự án cũng được hưởng lợi
từ dự án.
Ban quản lý
dự án
Dự án được thực hiện bởi một
Ban liên hiệp, đứng đầu là Sở Xây
dựng Sóc Trăng. Thành viên của
Ban liên hiệp gồm có UBND thành
phố Sóc Trăng, UBND Phường 3,
Trung tâm Quy hoạch Đô thị và
Nông thôn tỉnh Sóc Trăng, Sở Tài
nguyên & Môi trường, Hội Phụ nữ
và Đoàn thành niên.
Liên hệ: Ông Châu Kiến Văn
Trưởng Ban liên hiệp
Số 12 Châu Văn Tiếp, phường 4,
TX. Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng
Tel: 079.2220727 – Fax: 079.3826382
21
Chương trình Quy hoạch Môi trường Đô thị Việt Nam
Kinh nghiệm và bài học từ các Dự án tài trợ nhỏ
Dự án Trà Vinh là một trong 10 dự án nhỏ được Chương trình Quy hoạch Môi trường đô thị Việt Nam
(UEPP-VN) hỗ trợ. Đây là Chương trình được tài trợ bởi Ủy ban Châu Âu và do Bộ Xây dựng thực hiện. Để
biết thêm thông tin, xin vui lòng vào trang web: www.uepp.org, www.acvn.vn hoặc email
Khởi đầu từ tháng 12 năm 2006 và hoàn thành
vào tháng 03/2009, Dự án “Bảo dưỡng cây
cổ thụ và trồng mới cây xanh đường phố và
trong công viên” đang trợ giúp cho hệ thống
cây xanh của thị xã Trà Vinh. Ông Bùi Trung
Năm, Trưởng Ban liên hiệp nói về dự án tại đô
thị của mình như sau.
Điều rõ ràng là Trà Vinh là một thị xã cây
xanh. Chúng tôi có hơn một nghìn cây cao cổ
thụ. Thực vậy, nhiều cây cổ thụ hơn cả trăm
năm tuổi, và có những cây sống lâu đời nhất ở
vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài ra, trải
rộng trên khắp thị xã còn có hơn 7.500 cây
đa dạng về chủng loại. Cây xanh bao quanh
các chùa Khmer, tỏa bóng trên khắp các tuyến
phố của chúng tôi, và hình thành ranh giới thị
xã. Những loài cây sống nhờ nước và các loài
hoa được trồng tô điểm cho các công viên thị
xã.
Cây bị bệnh trước khi có dự án
Đến năm 2006, nhiều người dân nhận ra di
sản cây xanh của chúng tôi đang gặp nguy
hiểm. Trong vòng 5 năm chúng tôi đã mất đi
hơn 20 cây cổ thụ, và khoảng hơn 130 cây
xanh bị nhiễm bệnh hoặc ở nguy cơ chết khô.
Có nhiều người dân đã không nhận thức được
giá trị và chặt bỏ lãng phí cây xanh. Trong
khi đó, thị xã thiếu thốn phương tiện để khắc
phục vấn đề này như: không có hệ thống theo
dõi tình trạng của cây, không có kế hoạch bảo
dưỡng hay trồng mới; không có các thiết bị
chuyên dụng để chăm sóc và quản lý cây. Hơn
nữa chúng tôi nhận thấy ra rằng chúng tôi cần
khắc phục những vấn đề này để có thể có trở
thành thành phố cấp 3, như chúng tôi hằng
mong ước.
Do đó, khi Chương trình Quy hoạch Môi trường
Đô thị Việt Nam (Chương trình QHMTĐT-VN)
kêu gọi đề xuất, Ủy ban nhân dân thị xã chúng
tôi nhận biết chính xác đề xuất dự án nào
bảo dưỡng 1.000 cây cổ thụ, trồng mới ít nhất
10.000 cây con dọc các tuyến phố và trong
công viên; nâng cao nhận thức cộng đồng về
môi trường, và tăng cường năng lực quản lý
cây xanh cho các cán bộ Công ty công trình
công cộng thị xã thuộc Ban quản lý đô thị.
Quá trình thực hiện
Chúng tôi đã làm như thế nào? Trước tiên,
chúng tôi tiến hành điều tra, đo vẽ bản đồ,
và đánh giá điều kiện sống của từng cây cổ
thụ, ghi chép lại bất kỳ triệu chứng bệnh nào,
nguyên nhân gây bệnh, và phương pháp cứu
chữa. Sau đó, chúng tôi xây dựng một cuốn
sổ tay bảo dưỡng và chăm sóc cây xanh. Cùng
lúc đó, chúng tôi chuẩn bị kế hoạch trồng
mới cây xanh dọc các tuyến phố và công viên
trong vùng dự án.
Sau đó, chúng thôi thiết kế một chiến dịch vận
động thông tin và hành động, hướng mục tiêu
tới những đối tượng hưởng lợi khác như như
hộ gia đình, trường học, cơ quan chính phủ,
khu công nghiệp, và các ngành tư nhân. Chiến
dịch vận động gồm có những bài phát biểu
trước công chúng, các hội nghị chuyên đề về
bảo vệ môi trường, các cuộc thi vẽ tranh tại
các trường tiểu học, và các sự kiện trồng mới
cây xanh theo khẩu hiệu “Tuần lễ xanh” hoặc
“Ngày Chủ Nhật xanh”. Chúng tôi huy động
cộng đồng đóng góp cây giống và hàng rào
gỗ để các tổ chức đại diện có thể mua đúng
chủng loại cây tại vườn ươm.
Những thông điệp cụ thể trong chiến dịch
vận động của chúng tôi gồm những điều như
‘tránh cắt tỉa cây nếu không cần thiết’, ‘tránh
sử dụng đồ sắc nhọn tô vẽ lên thân cây’, và
‘tránh vứt bỏ rác gây ô nhiễm ở các gốc cây’.
Vướng mắc và khó khăn trong quá trình
thực hiện
Chúng tôi từng đối mặt với nhiều khó khăn và
từ đó học được nhiều bài học trong quá trình
thực hiện. Chúng tôi có thể kể ở đây một vài
ví dụ: (i) chúng tôi phát hiện ra có nhiều quy
chế về bảo dưỡng và trồng cây xanh, và để
có được phê duyệt từ cơ quan chính quyền
có liên quan thì mất rất nhiều thời gian, và
việc này sẽ làm cho quá trình thực hiện chậm
trễ; (ii) chúng tôi nhận thấy bất kỳ thay đổi
nào về thành viên Ban liên hiệp cũng tạo nên
những tác động tiêu cực và đáng kể tới việc
quản lý dự án; (iii) chúng tôi thấy rõ điều kiện
khí hậu bất lợi làm chậm trễ các hoạt động và
điều này nằm ngoài dự kiến của chúng tôi; và
(iv) chúng tôi một có chút thất vọng với sự
tham gia của cộng đồng ở các sự kiện trồng
cây xanh.
BẢO DƯỠNG CÂY CỔ THỤ VÀ TRỒNG MỚI CÂY XANH ĐƯỜNG PHỐ
VÀ TRONG CÔNG VIÊN THỊ XÃ TRÀ VINH
22
Chương trình Quy hoạch Môi trường Đô thị Việt Nam
Kinh nghiệm và bài học từ các Dự án tài trợ nhỏ
Dự án Trà Vinh là một trong 10 dự án nhỏ được Chương trình Quy hoạch Môi trường đô thị Việt Nam
(UEPP-VN) hỗ trợ. Đây là Chương trình được tài trợ bởi Ủy ban Châu Âu và do Bộ Xây dựng thực hiện. Để
biết thêm thông tin, xin vui lòng vào trang web: www.uepp.org, www.acvn.vn hoặc email
Phái đoàn EC thăm những cây đã được chăm sóc
Bài học kinh nghiệm
Chúng tôi cho rằng qua dự án này chúng tôi
đúc kết và rút được nhiều bài học hay. Trước
tiên, chúng tôi khuyến khích các hộ gia đình
tự chịu trách nhiệm với những cây xanh trồng
trước cửa nhà mình qua việc tưới nước và bảo
vệ cây, và thông báo cho chính quyền địa
phương khi cây bị thiệt hay hay bị đổ, theo
như quy chế của thị xã về trồng, chăm sóc và
bảo vệ cây xanh.
Thứ hai, chúng tôi huy động cộng đồng cùng
đóng góp, bao gồm đóng góp bằng hiện vật
như là cây giống, 30.000 hàng rào gỗ và
50.000 ngày công tham gia trồng và chăm
sóc cây.
Thứ ba, chúng tôi đưa xe cẩu trợ giúp tỉa cây,
nhất là những cây cao. Việc tỉa cây giúp duy trì
và thúc đẩy cây tăng trưởng, giúp ngăn ngừa
hư hại, và phát triển hình dáng đẹp của cây.
Tiếp đó, phần mềm Hệ thống thông tin địa lý
(GIS) cũng được cài đặt sử dụng (MapInfo và
ArcGIS) cho việc quản lý cây xanh. Nhiều dữ
liệu cơ bản ban đầu về cây xanh được lọc và
xử lý trên phần mềm quản lý. Ngoài ra, những
số liệu địa lý được nhập vào hệ thống giúp
nhận dạng kết nối vùng dự án. Theo kết quả
thu được, mỗi đơn vị cây trong thị xã đều có
trang số liệu riêng như là số lượng, số thứ tự
cho cây, loại cây, độ tuổi, bán kính, chiều cao,
tình trạng cây, v.v. Ứng dụng GIS giúp chúng
tôi theo dõi được tình trạng cây, lên kế hoạch
và quản lý các hoạt động chăm sóc cây, và lập
kế hoạch cho công tác trồng cây mới trong
tương lai.
Tính bền vững và kế hoạch tương lai
Công ty Công trình công cộng thị xã Trà Vinh
sẽ chịu trách nhiệm duy trì những kết quả thu
được sau khi dự án kết thúc. Ủy ban nhân dân
thị xã Trà Vinh sẽ tiếp tục khuyến khích sự
tham gia của cộng đồng, các tổ chức đoàn thể,
trường học, khu công nghiệp tiếp tục duy trì
trồng, chăm sóc và bảo vệ cây xanh. Hơn nữa,
dự án cũng đã phổ biến cẩm nang trồng cây
xanh đến các đô thị khác ở Đồng bằng sông
Cửu Long và cả nước.
Một số thống kê cơ bản
Tổng giá trị
dự án:
€277.667 (85% tài trợ từ Châu
Âu; 15% đóng góp chính phủ Việt
Nam); €45.630 đóng góp bằng
hiện vật từ các đối tác địa phương
và cộng đồng
Số người
hưởng lợi:
250.000 người dân thị xã Trà
Vinh
Ban quản lý
dự án
Công ty Công trình công cộng đô
thị (Trưởng ban liên hiệp)
Ủy ban nhân dân thị xã Trà Vinh
Đoàn thành niên thị xã Trà Vinh
Hội liên hiệp phụ nữ TX Trà Vinh
Hội nông dân thị xã Trà Vinh
Liên đoàn lao động TX Trà Vinh
Liên hệ: Ông Bùi Trung Năm
Trưởng Ban liên hiệp – UBND Tx Trà Vinh
Số 67 Lý Thường Kiệt, phường 3,
Tx. Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh
Tel: 074.3858647
23
Chương trình Quy hoạch Môi trường Đô thị Việt Nam
Kinh nghiệm và bài học từ các Dự án tài trợ nhỏ
Dự án Vĩnh Long là một trong 10 dự án nhỏ được Chương trình Quy hoạch Môi trường đô thị Việt Nam
(UEPP-VN) hỗ trợ. Đây là Chương trình được tài trợ bởi Ủy ban Châu Âu và do Bộ Xây dựng thực hiện. Để
biết thêm thông tin, xin vui lòng vào trang web: www.uepp.org, www.acvn.vn hoặc email
Bắt đầu từ tháng 12/2006, dự án “Quy hoạch
cải thiện môi trường chợ Phước Thọ” giúp cải
thiện môi trường chợ Phước Thọ tại Phường 8,
Thị xã Vĩnh Long. Bà Phạm Tuyết Nga, Trưởng
Ban liên hiệp mô tả về dự án như sau:
Trong hơn 50 năm qua, chợ Phước Thọ đã đóng
vai trò quan trọng trong Phường. Mỗi ngày có
2.000 lượt người, cộng với 550 hộ sinh sống
trong khu vực này, đi chợ mua bán hàng hóa ở
đây. Và hơn 50 hộ có các sạp buôn bán ở chợ,
tao ra công ăn việc làm cho 940 người.
Chợ Phước Thọ trước khi có dự án
Tuy nhiên, trong năm 2006, với áp lực sử dụng
lớn, tuổi thọ công trình và công tác bảo dưỡng
không theo kịp đang đặt khu chợ và khu vực
xung quanh trong tình trạng đáng báo động.
Hệ thống thoát nước từ ban đầu không được
thiết kế phù hợp với tiêu chuẩn hiện nay hoặc
không còn hoạt động nữa. Rác chợ không
được thu gom, và người bán trong chợ xả rác
thẳng xuống sông. Ít nhất mỗi năm một lần
vào mùa mưa, sông rạch gây ngập chợ, phải
đóng cửa chợ ngưng hoạt động trong vài ngày.
Vấn đề cuối cùng là người bán và người mua
không nhận thức tốt về các vấn đề môi trường
hoặc không tham gia nhiệt tình vào việc bảo
vệ môi trường khu chợ.
Quá trình thực hiện
Lo ngại về tương lai của khu chợ, Ban quản lý
chợ đã lập một dự án cải thiện khu chợ và khu
vực xung quanh. Các hợp phần của dự án bao
gồm xây mới và cải tạo hệ thống thoát nước,
nâng nền chợ cá, xây nhà vệ sinh công cộng,
cải thiện công tác thu gom rác và trồng cây
xanh đường khu vực chợ. Các hợp phần mềm
bao gồm nâng cao năng lực cán bộ địa phương
và nhận thức cộng đồng về bảo vệ môi trường.
Dự án đã được thực hiện theo từng bước một.
Điều đầu tiên chúng tôi làm là thành lập một
Ban liên hiệp bao gồm các sở, ban, ngành chủ
chốt để quản lý dự án. Sau đó, chúng tôi tiến
hành khảo sát hiện trạng hệ thống thoát nước
và quản lý rác thải để nhận diện chi tiết những
gì cần làm. Tiếp theo, chúng tôi lập thiết kế kỹ
thuật cơ sở cho các hạng mục xây dựng. Đồng
thời chúng tôi đánh giá nhận thức của cộng
đồng về dự án cải thiện môi trường khu chợ và
kêu gọi họ tham gia vào dự án.
Con sông gần chợ Phước Thọ chứa đầy rác thải từ chợ
Chúng tôi đã nâng cao nhận thức cộng đồng
bằng nhiều phương pháp khác nhau chẳng
hạn như là tập huấn, thông qua các phương
tiện truyền thông và tờ bướm tin, và tổ chức
các phong trào tổng vệ sinh. Và chúng tôi tiến
hành nâng cao năng lực cho các cán bộ dự án
thông qua các lớp tập huấn và chuyến tham
quan học tập đến các dự án ở Đắk Lắk và Tp.
Hồ Chí Minh do Ban liên hiệp tổ chức.
Vướng mắc và khó khăn trong quá trình
thực hiện
Trong quá trình thực hiện dự án chúng tôi đã
phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thử
thách, nhưng chúng tôi cũng đã học được
nhiều bài học có giá trị.
Thứ nhất, chúng tôi phải giữ cho khoảng thời
gian ngưng hoạt động ở chợ là ngắn nhất
trong lúc tiến hành xây dựng. Chúng tôi đã
giải quyết vấn đề này bằng cách lập một điểm
buôn bán tạm thời gần chợ và đề nghị nhà
thầu hoàn tất xây dựng công trình trong thời
gian sớm nhất. Đội ngũ tuyên truyền viên đã
giúp có được lượng lớn thành phần liên quan
đồng thuận với kế hoạch này. Sự phối hợp
chặt chẽ giữa các thành viên Ban liên hiệp
cũng giúp thực hiện tốt quy trình này.
QUY HOẠCH VÀ CẢI THIỆN MÔI TRƯỜNG CHỢ PHƯỚC THỌ TẠI
THÀNH PHỐ VĨNH LONG
24
Chương trình Quy hoạch Môi trường Đô thị Việt Nam
Kinh nghiệm và bài học từ các Dự án tài trợ nhỏ
Dự án Vĩnh Long là một trong 10 dự án nhỏ được Chương trình Quy hoạch Môi trường đô thị Việt Nam
(UEPP-VN) hỗ trợ. Đây là Chương trình được tài trợ bởi Ủy ban Châu Âu và do Bộ Xây dựng thực hiện. Để
biết thêm thông tin, xin vui lòng vào trang web: www.uepp.org, www.acvn.vn hoặc email
Thứ hai, chúng tôi không thể quyết định vị trí
đặt nhà vệ sinh công cộng trong khu chợ; nếu
đặt ở xa thì sẽ không thuận tiện; đặt quá gần
thì sẽ gây nhiễm bẩn thức ăn. Các chuyên gia
của VPDA đã giúp chúng tôi tìm được vị trí
phù hợp.
Thứ ba, từ việc nhìn thấy những sự thiếu sót
từ các dự án khác, chúng tôi bắt đầu cải thiện
công tác thu gom rác ngay sau khi hoàn tất
các hạng mục hạ tầng cơ bản khu chợ để giữ
cho khu vực luôn được sạch sẽ ngay từ đầu.
Bài học kinh nghiệm
Chúng tôi đã làm được nhiều điều và nhận thấy
đó là “kinh nghiệm tốt” có thể phù hợp với các
dự án khác. Đầu tiên chúng tôi có nhiều thành
viên trong Ban liên hiệp và hầu hết là những
cơ quan tổ chức chủ chốt, việc này giúp tạo
thuận lợi cho việc thực hiện dự án hiệu quả.
Thứ hai, mặc dù chúng tôi không có dự tính
trong kế hoạch nhưng việc nâng nền chợ tạo
ra được hiệu ứng trình diễn rất tốt. Nhiều hộ
dân xung quanh khu vực chợ có nền nhà thấp
hơn nền chợ sau khi nâng cấp đã tự bỏ tiền
nâng nền nhà và cải tạo lại hệ thống thoát
nước.
Chợ Phước Thọ mới được nâng cấp từ nguồn hỗ trợ của UEPP
và các đóng góp của địa phương
Thứ ba, mặc dù không nằm trong kế hoạch
ban đầu, sau khi bắt đầu thực hiện dự án
chúng tôi nhận thấy mái nhà lồng chợ cũng
cần phải thay thế. Do đó chúng tôi đã khuyến
khích chính quyền địa phương hỗ trợ vốn để
thực hiện hạng mục này.
Và cuối cùng, chúng tôi nhận ra rằng để duy
trì và giữ vững các kết quả của dự án, việc
hợp tác của tất cả các đối tượng liên quan là
rất quan trọng, bao gồm cộng đồng, ban quản
lý chợ, và chính quyền địa phương. Chúng tôi
cũng đã soạn thảo các qui định để duy trì và
vận hành chợ, các qui định này đã được phê
duyệt bởi UBND thị xã. Chúng tôi sau đó đã
dán các qui định lên các bức tường trong chợ,
để những người bán hàng và những người
khách đi chợ có thể dễ dàng nhìn thấy và thực
hiện theo.
Tính bền vững và kế hoạch tương lai
Ban Quản lý chợ Phước Thọ phối hợp với Sở
Tài nguyên & Môi trường đã cam kết vận hành
và bảo dưỡng khu vực theo tiêu chuẩn môi
trường. Và công tác nâng cao nhận thức cộng
đồng sẽ được tiếp tục bởi các tổ chức đoàn thể
tại địa phương.
Thêm vào đó Ban liên hiệp sẽ tiếp tục kết nối
đô thị và chia sẻ kinh nghiệm với các dự án
khác và chia sẻ kinh nghiệm với các nơi khác
để nhân rộng kết quả của dự án ra các khu vực
khác tương tự.
Một số thống kê cơ bản
Tổng giá trị
dự án:
€268.341 (90% tài trợ của Ủy
ban Châu Âu; 10% đối ứng của
địa phương); €27.865 đóng góp
khác ngoài cam kết trong Hợp
đồng tài trợ từ các đối tác địa
phương.
Số người
hưởng lợi:
Khoảng 3.690 tiểu thương và
người đi chợ và người dân sống
xung quanh chợ
Ban quản lý
dự án
Ban Quản lý chợ Phước Thọ (lãnh
đạo Ban liên hiệp), UBND Tỉnh,
Sở Xây dựng, Sở Giáo dục và Đào
tạo, Sở Khoa họa & Công nghệ,
UBND thị xã, UBND Phường 8, Chi
hội phụ nữ chợ Phước Thọ, Đoàn
Thanh niên và Mặt trận Tổ quốc.
Liên hệ: Bà Phạm Tuyết Nga
Trưởng Ban liên hiệp
Khóm 2, Nguyễn Trung Trực, phường 8,
TX. Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long
Tel: 070.3831283 – Fax: 071.3832465