Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể trên địa bàn huyện krông pắc, tỉnh đắk lắk (luận văn thạc sỹ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (324.91 KB, 76 trang )

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN.................................................................................................................................. .
LỜI CẢM ƠN......................................................................................................................................... .
MỤC LỤC................................................................................................................................................ .
DANH MỤC BẢNG BIỂU............................................................................................................... .
MỞ ĐẦU.................................................................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1.......................................................................................................................................... 16
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
GIÁ TRỊ VĂN HÓA PHI VẬT THỂ.......................................................................................... 16
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN............................................................................... 16
1.2. NỘI DUNG CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ
VĂN HÓA PHI VẬT THỂ............................................................................................................. 22
1.3. CHỦ THỂ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ
TRỊ VĂN HÓA PHI VẬT THỂ.................................................................................................... 25
1.4. CÁC GIAI ĐOẠN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
GIÁ TRỊ VĂN HÓA PHI VẬT THỂ.......................................................................................... 25
1.5. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN
VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA PHI VẬT THỂ....................................................... 32
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1.................................................................................................................. 36
CHƯƠNG 2.......................................................................................................................................... 37
THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN CÔNG TÁC BẢO TỒN....................................... 37
VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HĨA PHI VẬT THỂ TRÊN ĐỊA BÀN...................37
HUYỆN KRƠNG PẮC................................................................................................................... 37
2.1. KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, CHÍNH TRỊ, KINH TẾ- XÃ HỘI,
LỊCH SỬ VĂN HĨA, HUYỆN KRƠNG PẮC..................................................................... 37
2.2. PHÂN TÍCH VIỆC BAN HÀNH VÀ TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HĨA PHI VẬT THỂ
TẠI HUYỆN KRƠNG PẮC.......................................................................................................... 45


2.3. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ


TRỊ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ

TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KRÔNG

PẮC, TỈNH ĐẮK LẮK................................................................................................................... 48
2.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ
PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA PHI VẬT THỂ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN
KRÔNG PẮC, TỈNH ĐẮK LẮK................................................................................................ 51
2.5. NGUYÊN NHÂN..................................................................................................................... 56
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2.................................................................................................................. 57
CHƯƠNG 3.......................................................................................................................................... 59
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN........................ 59
VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HĨA PHI VẬT THỂ TẠI............................59
HUYỆN KRƠNG PẮC................................................................................................................... 59
3.1. QUAN ĐIỂM VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ ĐỐI VỚI HUYỆN KRÔNG PẮC 59
3.2. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HĨA PHI VẬT THỂ HUYỆN KRƠNG PẮC.......................60
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3.................................................................................................................. 67
KẾT LUẬN.......................................................................................................................................... 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................................. 70


DANH MỤC BẢNG BIỂU
BẢNG 2.1. DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ THUỘC LOẠI HÌNH NGỮ VĂN
DÂN GIAN.......................................................................................................................................... 46
BẢNG 2.2. DI SẢN VĂN HĨA PHI VẬT THỂ THUỘC LOẠI HÌNH NGHỆ
THUẬT TRÌNH.................................................................................................................................. 46
DIỄN DÂN GIAN............................................................................................................................. 46
BẢNG 2.3. DI SẢN VĂN HĨA PHI VẬT THỂ THUỘC LOẠI HÌNH NGHI LỄ,

47
LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG........................................................................................................... 47
BẢNG 2.4. DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN
KRÔNG PẮC...................................................................................................................................... 47


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự phát triển của mỗi đất nước, văn hóa được coi như một nguồn lực,
một nguồn vốn có vai trị quan trọng trong phát triển bền vững. Ở Việt Nam, nguồn
vốn văn hóa được biểu hiện ở hệ thống di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi
vật thể. Di sản văn hóa là những gì được sáng tạo trong quá khứ và truyền lại cho
thế hệ sau, là những sáng tạo của cha ông, thể hiện được chiều sâu của dân tộc,
mang tính lịch sử.
Trải qua các giai đoạn lịch sử, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công
tác bảo tồn và phát huy giá trị Di sản văn hóa của dân tộc. Đặc biệt Hội nghị Ban
chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 5 (khóa VIII) đã ban hành
Nghị quyết “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc”. Hội nghị xác định rõ: “Những thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ thế giới cùng với việc mở rộng giao lưu quốc tế là cơ sở để chúng ta tiếp
thu những thành quả trí tuệ của lồi người, đồng thời cũng đặt ra những thách thức
mới trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc" [10, tr.41].
Tuy nhiên, do tác động của cơ chế thị trường và quá trình hội nhập, nhiều di
sản văn hóa phi vật thể đang bị pha tạp và dần mai một. Thậm chí nhiều làn điệu
dân ca, điệu múa cổ truyền, nhạc cụ dân tộc, lễ hội dân gian, một số nghề thủ công
truyền thống và phương tiện sinh hoạt hằng ngày bị thất truyền, số cịn lại cũng
đang ở tình trạng khơng có điều kiện sản xuất, bị sức ép cạnh tranh rất lớn. Các tài
liệu, tư liệu đề cập từng lĩnh vực lưu giữ khơng nhiều, số cịn lại đang nằm rải rác,
chưa có điều kiện sưu tầm, tập hợp. Những nghệ sĩ, nghệ nhân am tường chuyên
môn đã lớn tuổi...
Mặc dù việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể từng bước

đã được thể chế hóa, nhưng từ chủ trương, chính sách cho đến việc triển khai thực
hiện vẫn còn nhiều khoảng cách, khâu chỉ đạo điều hành chưa có sự thống nhất cao.
Nguồn kinh phí, ngân sách, phương tiện, con người cần đầu tư, bố trí cho lĩnh vực
này cịn khó khăn. Bên cạnh đó là những thách thức khơng dễ một sớm một chiều
có thể giải quyết được, vì lâu nay mối quan tâm của chúng ta mới chỉ dừng ở các di

1


sản văn hóa phi vật thể mà chưa quan tâm đến chủ thể sáng tạo nó. Nhiều ý kiến cho
rằng đó là sáng tạo của nhân dân mà chưa ý thức đầy đủ khởi thủy sáng tạo, lưu
truyền, lưu giữ, trao truyền các di sản văn hóa phi vật thể thống từ thế hệ này qua
thế hệ khác. Việc sưu tầm, nghiên cứu cịn có vai trị của các nghệ nhân. Phát huy
vai trò nghệ nhân trong cộng đồng là cơng việc cần thiết, phải duy trì thường xun,
nhưng đáng tiếc chúng ta làm chưa tốt.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng: những vấn đề về chính sách, con người, nhà
đầu tư, các tổ chức xã hội và cộng đồng, nhất là các tổ chức quốc tế... đều là những
bộ phận quan trọng trong việc phát huy những giá trị của các di sản văn hóa phi vật
thể được UNESCO cơng nhận. Để bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể
một cách căn cơ, giải pháp nhận thức là quan trọng nhất. Vì từ nhận thức được giá
trị, vai trị của di sản văn hóa này, chính cộng đồng sẽ biết phải làm gì để bảo tồn và
phát huy. Trong những trường hợp cá biệt, chủ thể sáng tạo văn hóa và chủ sở hữu
di sản là một cộng đồng cư dân, thì ý chí, khát vọng, nhu cầu, thậm chí lợi ích của
họ cũng có tác động không nhỏ đến sự tồn vong của di sản văn hóa phi vật thể, bởi
chính họ là nhân tố quyết định những di sản văn hóa phi vật thể nào cần được sử
dụng và khai thác nhằm thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ văn hóa của cá nhân và cộng
đồng. Bên cạnh đó, Nhà nước cần đầu tư nhiều hơn ở lĩnh vực này để đáp ứng nhu
cầu thực tiễn, có kế hoạch hồn chỉnh, xác định những mốc thời gian cụ thể. Có
chính sách thỏa đáng, quan tâm hơn nữa các nghệ nhân để họ truyền dạy cho cộng
đồng những di sản còn lưu giữ được trong tâm thức. Biết cách khơi dậy sức sáng tạo

chủ động của nhân dân trong các hình thức sinh hoạt cộng đồng nhằm đáp ứng nhu
cầu hoạt động văn hóa trong thời kỳ mới. Giữ gìn truyền thống văn hóa trong gia
đình, trong làng, bản, tạo điều kiện cho quần chúng tiếp nhận thông tin về mọi mặt
đời sống kinh tế - xã hội và thực hiện quyền làm chủ của mình. Đặc biệt chú trọng
đến tiếng nói của các chủ thể văn hóa, bảo đảm quyền của họ trong sáng tạo và
hưởng thụ văn hóa. Mặt khác khuyến khích, tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân
nghiên cứu, bảo quản, truyền dạy và giới thiệu di sản văn hóa phi vật thể. Nâng cao
chất lượng nghiên cứu khoa học về các giá trị di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc, mở

2


lớp bồi dưỡng về dân ca, dân vũ truyền thống. Nên học tập cách làm ngân hàng dữ
liệu di sản văn hóa của các nước đã có kinh nghiệm và điều kiện đi trước.
Ngồi ra, u cầu có tính cấp bách là phải chọn lọc được đội ngũ cán bộ thực
hiện chính sách bảo tồn giá trị văn hóa phi vật thể giỏi chun mơn, am hiểu về văn
hóa, phong tục tập quán của đồng bào ở khắp mọi miền Tổ quốc. Bởi điều quan
trọng đối với việc phát huy những di sản văn hóa phi vật thể là làm cho di sản ấy
“sống” giữa cuộc đời, như chính bản chất của nó, góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa
dân tộc, đưa văn hóa trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, đưa di sản văn hóa nói
chung, di sản văn hóa phi vật thể nói riêng mãi là tài nguyên phong phú, là sản
phẩm du lịch lợi thế của nhiều địa phương.
Nhận thức rõ vai trò to lớn của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội,
định hình nên diện mạo của một dân tộc. Chính vì vậy, cơng tác bảo tồn và phát huy
các giá trị văn hóa dân tộc là một trong những điểm cốt lõi trong chính sách về văn
hóa của Đảng và Nhà nước ta. Tại Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, khi đưa ra chủ
trương “bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số”, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã khẳng định: “Coi trọng và bảo tồn, phát huy những giá trị truyền
thống và xây dựng, phát triển những giá trị mới về văn hóa, văn học, nghệ thuật
của các dân tộc thiểu số"[10, tr.63]. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số

124/2003/QĐ-TTG ngày 17 tháng 6 năm 2003 về việc phê duyệt đề án bảo tồn,
phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam với các mục tiêu để bảo tồn, kế
thừa có chọn lọc và phát huy những tinh hoa văn hoá truyền thống của các dân tộc.
Cũng như trên tinh thần của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, Đề án
“Bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiếu số Việt Nam đến năm 2020” đã được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 27/7/2011.
Thực hiện theo đề án này, UBND tỉnh Đắk Lắk đã ban hành Kế hoạch thực
hiện Đề án “Bảo tồn, phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm
2020” trên địa bàn tỉnh nhằm triển khai hiệu quả các tiểu Đề án theo Quyết định số
1270/QĐ-TTg ngày 27/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ, qua đó thực hiện tốt công
tác bảo tồn và nâng cao năng lực tự bảo vệ trước nguy cơ mai một văn hoá của các
dân tộc thiểu số rất ít người, tạo điều kiện phát huy văn hố các dân tộc thiểu số có
3


số dân đơng; bảo tồn, phát triển văn hố các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh đến
năm 2020.
Krông Pắc cũng như các địa phương khác ở tỉnh Đắk Lắk đang nỗ lực triển
khai thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể. Việc thực
hiện các chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể ở địa phương đạt
được những thành tựu nhất định, tuy nhiên bên cạnh đó, việc thực hiện chính sách
này cịn gặp phải những tồn tại, hạn chế. Việc ban hành cơ chế chính sách đặc thù
của địa phương để thực thi chính sách cịn chậm dẫn đến tình trạng một số di sản
phi vật thể của cộng đồng nhân dân các dân tộc huyện Krơng Pắc ngày một mai
một, thậm chí một số di sản đã thất truyền Trước sự vận động và biến đổi không
ngừng của thế giới, sự phát triển của nền kinh tế thị trường, xu thế hội nhập hiện
nay đã ảnh hưởng lớn đến văn hóa của các dân tộc nói chung và ảnh hưởng tới giá
trị văn hóa truyền thống của các dân tộc ở huyện Krơng Pắc, tỉnh Đắk Lắk nói riêng.
Do sự tác động của nền kinh tế thị trường, do ảnh hưởng mạnh mẽ của các giá trị
văn hóa từ các cộng đồng dân cư khác mang tới; ảnh hưởng của tôn giáo mới…,

những giá trị văn hóa truyền thống của các tộc người có nguy cơ mai một, đứt gãy
trong q trình hội nhập. Thực trạng này đã đặt ra vấn đề về tính cấp thiết của việc
hồn thiện các giải pháp triển khai thực hiện chính sách về bảo tồn và phát huy giá
trị văn hóa phi vật thể ở huyện Krơng Pắc hiện nay.
Từ thực tiễn đó, vấn đề “Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị
văn hóa phi vật thể trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk” được chọn làm
đề tài luận văn thạc sĩ, chun ngành Chính sách cơng là có ý nghĩa thời sự, lý luận
và thực tiễn cấp bách.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Di sản văn hóa phi vật thể nói riêng và hệ thống di sản văn hóa nói chung có
q trình hình thành và phát triển lâu đời, gắn bó hữu cơ với đời sống văn hóa, đời
sống xã hội của mỗi quốc gia, do con người tạo ra, được kế thừa, giữ gìn từ thế hệ
này sang thế hệ khác.
Văn kiện của Tổ chức UNESCO (1971) mang tên “Khả năng thiết lập các văn
kiện quốc tế để bảo vệ văn hóa dân gian” (Posibility establishing international
4


instrument to protect Folklore). Năm 1989, UNESCO đưa ra văn kiện có tính chất
quy phạm quốc tế đầu tiên đó là ‘The recommendation on the Safeguarding of
Traditional Culture and Folklore” (Khuyến nghị bảo vệ văn hóa truyền thống và
văn hóa dân gian). Như vậy, có thể nói trong năm 1971 đã được hiện thực hóa thành
một văn kiện chính thức; phạm vi bảo vệ được mở rộng bao gồm cả văn hóa truyền
thống. Năm 1992, một chương trình về di sản văn hóa phi vật thể đã được thiết lập.
Năm 1997, chương trình này được UNESCO nâng lên thành chương trình được ưu
tiên hàng đầu trong lĩnh vực văn hóa của UNESCO thể hiện cụ thể ở dự án mang
tên “cơng bố chính thức kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phi vật thể của nhân
loại”. Điều này đã giúp cho khái niệm “di sản thế giới” được hồn thiện hơn khi mà
trước đó chỉ được hiểu là di sản thiên nhiên và các di sản văn hóa vật thể. Đến năm
2003, sau rất nhiều phiên họp thảo luận của UNESCO, Cơng ước về di sản văn hóa

phi vật thể đã được thông qua; đây là kết quả của q trình nhận thức lâu dài, qua đó
đã thiết lập được khái niệm khá toàn diện về di sản văn hóa phi vật thể. Qua những
quan niệm trên có thể rút ra một số nhận xét như sau:
Hầu hết các khái niệm đều cố gắng liệt kê ra các dạng của di sản văn hóa phi
vật thể như nghệ thuật múa, nhạc, ngôn ngữ, nghề thủ công truyền thống,… Các
cơng trình nghiên cứu này có thể loại trừ một vài nét văn hóa mà trong tương lai
mới được biết đến và cơng nhận là di sản văn hóa phi vật thể. Tuy nhiên, họ cũng
đưa ra biểu hiện cụ thể của di sản văn hóa phi vật thể một cách rõ ràng, sẽ trả lời
được câu hỏi: loại hình mà chúng ta đang cần bảo vệ cụ thể hiện nay là loại hình
nào. Các quan niệm trên đều xác định các giá trị nổi bật của di sản văn hóa phi vật
thể đó là: giá trị lịch sử, giá trị nghệ thuật, giá trị học thuật. Những giá trị ấy là cốt
lõi của vấn đề bảo vệ di sản văn hóa. Bảo vệ khơng chỉ vì sự hiện diện của một loại
hình di sản trong hệ thống di sản văn hóa, mà bảo vệ để lưu giữ những giá trị mà nó
đem đến cho cộng đồng. Giá trị ấy là động lực thúc đẩy mỗi quốc gia có những
hành động tích cực bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể.
Việc cụ thể hóa di sản văn hóa phi vật thể là một điều khó khăn bởi nó khơng
có hình dáng nhất định nhưng có thể thấy con người chính là nơi chứa đựng những
di sản văn hóa đó. Những di sản này không hiện hữu một cách rõ ràng như một ngôi
5


chùa, hay một cơng trình kiến trúc mà cần có con người sử dụng, truyền tải thì
người khác mới biết đến sự tồn tại của nó. Nếu những người cuối cùng lưu giữ di
sản đó mất đi thì những di sản ấy cũng sẽ biến mất. Vì vậy, con người là trung tâm
của di sản văn hóa phi vật thể.
Ở nước ta, Tại Việt Nam mặc dù đến năm 2001 mới có Luật Di sản văn hóa
nhưng việc bảo vệ di sản văn hóa đã được đặt ra trước đó khá lâu. Các bộ Luật thời
trung đại (Quốc triều hình luật - đời Lý; Lê triều hình luật - Luật Hồng Đức, thời
Lê; Hoàng Việt luật lệ - Luật Gia Long, thời Nguyễn) và các bộ sử, chí, lục thời
trung đại (Đại Việt sử kí tồn thư, Lam Sơn thực lục, Việt sử thông giám cương mục,

Đại Nam nhất thống chí, Gia Định thành thơng chí, Đại Nam thực lục…) có thể
thấy, các vị vua phong kiến xưa cũng đã ý thức được việc phải bảo vệ các di sản văn
hóa. Đặc biệt là các cơng trình kiến trúc tơn giáo thể hiện sự tôn nghiêm, uy quyền
của thần thánh, của nhà vua, được xây dựng với cơng sức đóng góp của tồn dân,
thể hiện tài năng, trí óc, tâm linh, tình cảm, niềm tin, hi vọng của các vương triều
cũng như cộng đồng nhân dân được hết sức giữ gìn.
Đến thời kì lịch sử hiện đại, văn bản đầu tiên đề cập đến vấn đề này là Sắc
lệnh số 65/SL ngày 23 ngày 11 năm 1945 của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa “Ấn định nhiệm vụ của Đông phương bác cổ học viện”. Sắc lệnh khẳng
định việc bảo tồn cổ tích là cơng việc rất quan trọng và rất cần thiết cho công cuộc
kiến thiết nước Việt Nam.
Năm 1958, tại Hội nghị cán bộ văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
“Những câu tục ngữ, những câu vè, cao dao rất hay là những sáng tác của quần
chúng. Các sáng tác ấy rất hay mà lại ngắn, chứ không “trường thiên đại hải”, dây
cà ra dây muống. Các cán bộ văn hóa cần phải giúp sáng tác của quần chúng.
Những sáng tác ấy là những hịn ngọc q” [31, tr.125-127 ]
Những lời nói giản dị của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ cách đây hơn nửa thế kỷ
đã là những định hướng đầu tiên về vấn đề bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể.
Đến năm 2001, lần đầu tiên vấn đề bảo vệ di sản văn hóa được thể chế hóa
thành Luật. Ngày 29/06/2001 Quốc hội nước ta đã ban hành Luật di sản văn hóa,
tiếp đó được sửa đổi bổ sung bởi Luật số 32/2009/QH12 sửa đổi bổ sung một số
6


điều của Luật di sản văn hóa 2001. [chương I, điều 4] đây là cơ sở pháp lý để chúng
ta thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể trong bối cảnh
vừa phát triển kinh tế-xã hội; vừa bảo vệ di sản văn hóa cho mn đời sau.
Tác giả Lê Đình Thành có nghiên cứu về “Thực hiện chính sách bảo tồn di sản
văn hóa phi vật thể ở Phú Thọ”. Tác giả phân tích đánh giá: Để di sản văn hóa phi
vật thể lan tỏa trong cộng đồng, có thể nói, đến thời điểm này, Phú Thọ đã rất chú

trọng, quan tâm tới cơng tác thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy giá trị các di sản
văn hóa phi vật thể và đã đạt được những thành tựu đáng trân trọng. Tuy nhiên,
cũng như các địa phương khác trên cả nước, Phú Thọ cịn rất nhiều khó khăn trong
q trình thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa phi vật
thể với thực trạng nguy cơ thất truyền, mai một của nhiều loại hình di sản văn hóa
phi vật thể, việc phát huy giá trị các lễ hội truyền thống còn nhiều hạn chế; việc sưu
tầm, bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa phi vật thể chưa tương xứng với tiềm
năng hiện có; nguồn kinh phí, ngân sách, phương tiện, con người cần đầu tư, bố trí
cho lĩnh vực này cịn khó khăn [40].
Tác giả nêu lập luận: Để nâng cao chất lượng và hiệu quả trong thực hiện
chính sách bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh, việc
cần thiết và cơ bản chính là bằng biện pháp đưa những di sản văn hóa này trở lại với
cộng đồng sinh hoạt văn hóa, bằng cách khơi dậy tình u, lịng tự hào đối với
truyền thống của dân tộc trong mỗi người dân tới tồn cộng đồng. Thực hiện tốt
cơng tác kiểm kê, lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể tại địa phương một
cách khoa học và có hệ thống thơng qua việc tư liệu hóa, vật thể hóa hệ thống di sản
văn hóa phi vật thể nhằm nhận diện và xác định mức độ tồn tại, giá trị và sức sống
của từng loại di sản văn hóa phi vật thể trong cộng đồng trên cơ sở đó đề xuất
phương án bảo tồn, phát huy một cách hiệu quả. Bên cạnh đó, cần tăng cường thực
hiện cơ chế chính sách đặc thù để tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động
trên, gắn trách nhiệm của các cấp chính quyền, đồn thể và người dân nhằm thực
hiện xã hội hóa cơng tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa; tăng cường
tuyên truyền về bảo tồn văn hóa phi vật thể cho người dân nâng cao nhận thức về
truyền thống văn hóa của dân tộc để từ đó mỗi cá nhân có ý thức bảo vệ di sản.
Đồng thời đưa di sản văn hóa phi vật thể vào bảo quản trong các kho tư liệu, vào
giảng dạy trong nhà trường, tổ chức sinh hoạt trong cộng đồng hay tại các bảo tàng
7


và có chính sách, chế độ cho các nghệ nhân, những cá nhân có cơng sức gìn giữ,

bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc.
Tác giả Khánh Vân trong chuyên đề khoa học “Thực hiện chính sách bảo tồn
và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể ở Sơn La” [53], tác giả phân tích sâu sắc:
Thực hiện Luật Di sản Văn hóa, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Sơn La đã
làm tốt cơng tác xây dựng chính sách này thơng qua các hoạt động: kiểm kê di tích
lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn, đánh giá thực trạng về tổ
chức thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy giá trị các di tích đã được xếp hạng.
Đồng thời, tổ chức điều tra, khảo sát, nghiên cứu lập hồ sơ khoa học đề nghị các cấp
xếp hạng các di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh trên địa bàn toàn tỉnh.
Tác giả phân tích để thực hiện chính sách này, cơ quan chủ trì thực hiện chính sách
đã xây dựng kế hoạch thực hiện; tiến hành các hoạt động như: thống kê, tỉnh ta hiện
có 96 di tích được đưa vào danh mục, trong đó, 1 di tích quốc gia đặc biệt, 16 di tích
quốc gia, 46 di tích cấp tỉnh, 33 di tích chưa được xếp hạng. Các đơn vị, địa phương
được giao quản lý các di tích lịch sử và danh lam, thắng cảnh đã làm tốt công tác
bảo tồn và khai thác hiệu quả, hàng năm thu hút hàng nghìn lượt người tham quan,
học tập và nghiên cứu, góp phần vào việc giáo dục truyền thống, ý thức phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc, xây dựng mơi trường văn hóa lành mạnh trong các tầng lớp
nhân dân. Một số di tích đã có nguồn thu từ phí tham quan để đầu tư trở lại cho
công tác trùng tu, tơn tạo, chống xuống cấp, như: Di tích Quốc gia đặc biệt Nhà tù
Sơn La, Di tích Văn bia Quế lâm Ngự chế - Đền thờ Vua Lê Thái Tông, Di tích lịch
sử lưu niệm Trung đồn Tây Tiến...Để thực hiện duy trì chính sách ở địa phương, cơ
quan chủ trì thực hiện chính sách là Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch đã phối hợp
với chính quyền địa phương tổ chức bảo tồn các tư liệu, hiện vật văn hóa, lịch sử,
dân tộc ln được quan tâm, Bảo tàng tỉnh đang lưu giữ hơn 20 ngàn tài liệu, hiện
vật, trong đó có các sưu tập hiện vật quý, như: Sưu tập đồ đồng, trống đồng; sách
chữ Thái cổ, Dao cổ; trang phục các dân tộc thiểu số... được trưng bày theo một số
chuyên đề trong không gian của Di tích quốc gia đặc biệt Nhà tù Sơn La, như: Đặc
trưng văn hóa các dân tộc Sơn La; Khảo cổ học Sơn La thời kỳ Tiền - Sơ sử; Bác
Hồ với nhân dân các dân tộc Sơn La; các di sản văn hóa tiêu biểu của các dân tộc
8



được công nhận và đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Nhà
trưng bày “Di sản văn hóa vùng lịng hồ Thủy điện Sơn La” với hệ thống kho bảo
quản hơn 6.000 hiện vật được sưu tầm, khai quật trong vùng ngập của Nhà máy
thủy điện Sơn La và hệ thống trưng bày các hiện vật được khai quật từ các di chỉ
khảo cổ học, quá trình xây dựng Nhà máy thủy điện Sơn La; văn hóa các dân tộc
trong vùng ngập của lịng hồ thủy điện Sơn La.
Đề cơng tác thực hiện chính sách được duy trì liên tục, Sở Văn hóa Thể thao
và Du lịch đã thực hiện việc kiểm tra thực hiện các nội dung của chính sách bảo tồn
và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể như: tiến hành kiểm kê di sản văn hóa của các
dân tộc trên địa bàn để nhận diện đầy đủ đặc trưng văn hóa của các dân tộc, các
ngành và các nhóm địa phương với 9 dân tộc, gồm: Thái, Mông, Dao, Mường, Xinh
Mun, Khơ Mú, La Ha, Lào, Kháng và nghiên cứu lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa
phi vật thể tiêu biểu, đề nghị đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Kết quả, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã cơng nhận và đưa vào danh mục di sản
văn hóa phi vật thể quốc gia 12 di sản văn hóa tiêu biểu, đó là: Chữ viết cổ dân tộc
Thái, Lễ Hết Chá dân tộc Thái (nhóm Thái trắng Mộc Châu); nghệ thuật xịe Thái;
lễ cúng dịng họ dân tộc Mơng; lễ Pang A (cầu an) của dân tộc La Ha; nghi lễ cấp
sắc của dân tộc Dao; nghệ thuật khèn của người Mông huyện Mộc Châu; nghi lễ
truyền thống trong đám cưới của người Dao tiền; lễ gội đầu của người Thái trắng
huyện Quỳnh Nhai; nghệ thuật tạo hoa văn trên trang phục của người Mông hoa
huyện Mộc Châu; nghi lễ Mạng Ma (cầu sức khỏe) của người Xinh Mun, xã Chiềng
On, huyện Yên Châu; nghi lễ Kin Pang Then của người Thái trắng. Duy trì tốt hoạt
động nghiên cứu, sưu tầm, chế tác, thể hiện, truyền dạy và tư liệu hóa văn hóa
truyền thống của các dân tộc, như: Nhạc cụ của người Mông, Thái, Dao, Khơ Mú;
các làn điệu dân ca của người Dao, Thái, Mường, Mông; nghề làm giấy và nghệ
thuật vẽ tranh thờ trên giấy dó của người Dao; nghi lễ cúng vía trâu của người Thái;
lễ cúng bản của người La Ha; lễ mừng cơm mới của người Lào; nghề thêu và in hoa
văn bằng sáp ong trên vải của dân tộc Mơng...

Bên cạnh đó, từ năm 1992 đến nay tồn tỉnh thường xun duy trì trên 3.000
đội văn nghệ quần chúng tại các bản, tổ, tiểu khu. Ngồi kinh phí hỗ trợ 2 triệu
9


đồng/bản/năm theo chính sách của tỉnh, các đội văn nghệ đã kêu gọi xã hội hóa, huy
động nhân dân đóng góp để duy trì hoạt động, tham gia biểu diễn giao lưu, liên
hoan, hội thi, hội diễn. Nhờ đó, phong trào văn hóa, văn nghệ quần chúng của tỉnh
phát triển mạnh, là môi trường tốt để bảo tồn những điệu múa, dân ca, nhạc cụ
truyền thống, góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa, nâng cao đời sống tinh thần cho
nhân dân và tổ chức phục vụ khách du lịch. [ ]
Trương Bi, Bùi Minh Vũ (2009), trong cơng trình Bảo tồn, phát huy di sản văn
hóa các dân tộc Êđê, Mnơng, trên cơ sở đặc trưng văn hóa của người Êđê, Mnông
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, các tác giả đã cho thấy việc cần thiết phải bảo tồn, phát
huy di sản văn hóa của dân tộc Êđê, Mnơng đặc biệt là di sản VHPVT khơng gian
văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên – đã được UNESCO công nhận là Di sản VHPVT
đại diện của nhân loại [6].
Năm 2016, Viện Khoa học xã hội vùng Tây Nguyên phối hợp với Cơ quan đại
diện Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tại Đà Nẵng đã tổ chức Hội thảo “Bảo tồn và
phát huy giá trị văn hóa truyền thống các DTTS tại chỗ vùng Tây Nguyên”. Hội
thảo đã nhận được nhiều bài tham luận liên quan đến thực trạng văn hóa của các
DTTS và vấn đề bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa của Tây Nguyên. Các tác giả
như Trương Quốc Bình, H’Lim, Bùi Minh Đạo,… đã quan tâm đến các chính sách
bảo tồn văn hóa và đưa ra một số vấn đề tồn tại, hạn chế trong việc thực hiện chính
sách này đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa
của các dân tộc ở Tây Nguyên nói chung [54].
Nghiên cứu của tác giả Mã Thị Hạnh (2016), Giữ gìn và phát huy giá trị văn hố
của dân tộc Mnông ở huyện Lăk hiện nay đã tập trung nhấn mạnh về cơng tác giữ gìn
và phát huy các giá trị văn hóa của tộc người Mnơng ở huyện Lăk, tỉnh Đăk Lăk [23].


Ngay trong đầu năm 2021, Trong khuôn khổ chương trình Hội thảo Triển khai
thực hiện Chương trình phát triển kinh tế - xã hội, bảo tồn phát huy giá trị văn hóa
truyền thống vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi trên địa bàn các
tỉnh Tây Nguyên và duyên hải miền Trung do Hội đồng Dân tộc, Ủy ban Văn hóa,
Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội phối hợp với Ủy ban
Dân tộc và Tỉnh ủy Đắk Lắk tổ chức ngày 13/01 tại Đắk Lắk; ngoài thảo luận, bàn
10


giải pháp triển khai thưc hiện Chương trình, chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng
DTTS và miền núi, các đại biểu đặc biệt quan tâm đến nội dung bảo tồn phát huy giá trị
văn hóa truyền thống vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Ngay trong bài phát
biểu khai mạc Hội thảo, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Tịng Thị Phóng nhấn
mạnh: Tây Nguyên là trung tâm giao thoa nhiều nguồn văn hóa, đồng bào các dân tộc
bao đời nay đã sưu tầm và giữ gìn các giá rị văn hóa đặc sắc như: sử thi, thơ ca, múa,
cồng chiêng…. Đó là tinh hoa văn hóa vật thể và phi vật thể độc đáo riêng
có của Tây Nguyên. Mỗi chúng ta phải có trách nhiệm cùng đồng bào Tây Nguyên giữ
gìn những giá trị văn hóa rất riêng đó,… Phó chủ tịch Thường trực Quốc hội đề nghị,
Hội thảo cần bàn kỹ về bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa Tây Nguyên để có những
chương trình cụ thể nhằm tiếp tục giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa độc đáo của
đồng bào các dân tộc Tây Nguyên; bảo tồn không gian văn hóa Tây Nguyên gắn với
phát triển kinh tế, đảm bảo an ninh chính trị.[ , ngày 13/01/2021]

Tác giả Lê Thọ Quốc và Nguyễn Chí Ngàn trong nghiên cứu ”Vấn đề bảo tồn,
phát huy giá trị văn hóa tinh thần trong các cộng đồng tái định cư ở vùng kinh tế
trọng điểm Trung bộ hiện nay” đã phân tích:
Miền Trung Việt Nam đang có những bước chuyển mình về kinh tế với việc
thu hút đầu tư trong và ngoài nước trên nhiều lĩnh vực ngày một tăng. Vùng kinh tế
trọng điểm Trung Bộ với những trung tâm phát triển như Đà Nẵng, Thừa Thiên
Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định đã tạo nên một nền móng khá vững trong

chiến lược phát triển kinh tế vùng và bước đầu có những tác động, hiệu quả thiết
thực trong đời sống cư dân. Tuy nhiên, những chuyển biến này đã gây nhiều xáo
trộn đối với các cộng đồng cư dân sinh sống ở đây và việc tái định cư đã, đang đặt
ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu. Trong đó, vấn đề thực hiện chính sách bảo tồn và
phát huy các giá trị văn hóa tinh thần trong các cộng đồng tái định cư ở các vùng
kinh tế trọng điểm miền Trung được đặc biệt chú ý bên cạnh việc đảm bảo kinh tế,
ổn định đời sống của cư dân trên vùng đất mới. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã
hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Cho nên,
việc thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy văn hóa ln có sứ mệnh quan trọng
trong việc xây dựng và phát triển đời sống các cộng đồng cư dân tái định cư. Mặt
11


khác, phát triển và quản lý xã hội luôn lấy các thành tố kinh tế, văn hóa và chỉ số
phát triển con người (HDI) làm thước đo chuẩn mực trong chiến lược phát triển bền
vững. Từ mối quan hệ này, các giá trị văn hóa tinh thần lẫn vật chất nếu được bảo
tồn và phát huy tốt sẽ tạo nên diện mạo mới trong đời sống cho mỗi cộng đồng. Hơn
nữa, nếu vận dụng một cách hiệu quả sẽ phát huy được tác dụng của nó trong việc
phục hồi các di sản văn hóa khơng riêng ở những bộ phận tái định cư mà cịn làm
giàu thêm văn hóa dân tộc trước những tác động của xu hướng toàn cầu hiện nay.
[38, tr.41- 42]
Tác giả Vũ Tuấn Hưng trong Đề tài khoa học cấp Nhà nước: “Bảo tồn và

phát triển tài sản trí tuệ vùng Tây Nguyên trong bối cảnh hội nhập mới” được
phân tích, đánh giá dưới góc độ nhìn nhận vai trị của các tài sản trí tuệ là một trong
những yếu tố quan trọng thúc đẩy cho sự phát triển bền vững của cộng đồng dân cư các
đồng bào dân tộc thiểu số của Tây Nguyên cũng như trong mối quan hệ biện chứng
giữa bảo tồn và phát triển, phát triển nhằm bảo tồn, và bảo tồn để phát triển. Nghiên
cứu đã chỉ ra: Tây Nguyên là một vùng có nhiều tiềm năng về tài sản trí tuệ, trong đó,
đặc biệt là các tài sản trí tuệ gắn với văn hóa bản địa, tri thức truyền thống và vơ vàn

sản phẩm đặc trưng Tây Ngun. Nhóm tác giả cũng đã đánh giá những thành tựu, hạn
chế và ngun nhân của của nó trong việc thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển tài
sản trí tuệ vùng Tây Nguyên. Trên cơ sở đó, các tác giả đề xuất quan điểm, định hướng,
giải pháp chính sách cho bảo tồn và phát triển tài sản trí tuệ vùng Tây Nguyên trong bối
cảnh hội nhập quốc tế mới [27].

Tác giả Nguyễn Duy Thụy (Chủ nhiệm) (2018) trong Đề tài cấp Bộ với tiêu
đề: “An sinh xã hội đối với đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ tỉnh Đắk Lắk hiện
nay”, đã chỉ rõ trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Đắk Lắc, Nhà nước
cần quan tâm thực hiện các chính sách an sinh xã hội; trong đó có việc nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số. Để thực hiện được các
mục tiêu này thì cơng tác tổ chức thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị
văn hóa phi vật thể cần được sự quan tâm của các cấp các ngành và các tổ chức
chính trị xã hội ở địa phương; góp phần bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể ở vùng
đồng bào dân tộc thiểu số, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào dân
12


tộc thiểu số; góp phần vào cơng tác thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở
những vùng khó khăn ở nước ta trong giai đoạn hiện nay [44].
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở hệ thống hố cơ sở lý luận, phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện
chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể trên địa bàn huyện Krông
Pắc, tỉnh Đắk Lắk, từ đó đề xuất các giải pháp hồn thiện việc thực hiện chính sách
bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể trên địa bàn huyện Krơng Pắc, tỉnh
Đắk Lắk trong những năm tới.
3.2. Nhiệm vụ
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về chính sách bảo tồn và phát huy giá
trị văn hóa phi vật thể.

- Phân tích đánh giá thực trạng thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị
văn hóa phi vật thể trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện việc thực hiện chính sách bảo tồn và phát
huy giá trị văn hóa phi vật thể trên địa bàn huyện Krơng Pắc, tỉnh Đắk Lắk trong
thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực hiện Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa
phi vật thể trên địa bàn huyện Krông Pắc.
- Phạm vi không gian: Huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk.
- Phạm vi thời gian: Từ 2018 đến 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cách tiếp cận
Luận văn vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và dựa trên quan điểm của
Đảng, Nhà nước về vấn đề chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi
13


vật thể nói chung, thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi
vật thể trên địa bàn huyện Krơng Pắc nói riêng.
5.2. Câu hỏi nghiên cứu
- Những vấn đề lý luận về chính sách đối với Di sản văn hóa phi vật thể là gì?
- Thực trạng ban hành và thực hiện chính sách đối với Di sản văn hóa phi vật
thể tại huyện Krông Pắc hiện nay được thực hiện như thế nào? Có được kết quả như
thế nào so với mục tiêu chính sách đề ra chưa?
- Giải pháp như thế nào nhằm đổi mới, hồn thiện thực hiện chính sách về Di
sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn huyện Krông Pắc.

5.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và nhiều phương
pháp khác.
- Phương pháp định tính: Thực hiện phỏng vấn sâu 20người gồm: các cụ cao
niên, các nhà nghiên cứu lịch sử - văn hóa Huyện Krơng Pắc, hội viên Hội Bảo tồn
dân ca huyện Krông Pắc, hội viên Hội Di sản văn hóa huyện Krơng Pắc, cán bộ làm
cơng tác văn hóa từ cơ sở đến huyện, cán bộ bảo tàng tỉnh, chuyên viên văn xã văn
phòng UBND huyện.
- Phương pháp xử lý số liệu: Sử dụng phương pháp thống kê.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành trong khoa học xã hội:
Bao gồm chính sách cơng, kinh tế học, xã hội học, chính trị học, nhân học, văn
hóa học… để phân tích, tổng hợp, làm nổi bật được vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp tổng hợp, thu thập số liệu:
+ Các văn bản: Nghị quyết, chỉ thị của Đảng; chính sách của Nhà nước về Di
sản văn hóa phi vật thể.
+ Số liệu thứ cấp: Các số liệu về tên, địa chỉ các di sản văn hóa phi vật thể tại
huyện Krông Pắc.
+ Số liệu sơ cấp: Tác giả luận văn tự thu thập thông tin qua điều tra thực tế tại
các địa chỉ có di sản, tư liệu tại Phịng Văn hóa và Thơng tin huyện, Hội Bảo tồn
dân ca huyện Krơng Pắc và Hội Di sản văn hóa Krông Pắc,
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận
văn 6.1. Ý nghĩa lý luận

14


Luận văn đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về chính sách bảo tồn và phát huy giá
trị văn hóa phi vật thể; vận dụng lý thuyết về chính sách cơng để đánh giá việc thực
hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể ở cấp quận/huyện.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn

- Đánh giá mặt đạt được và chưa được thực trạng thực hiện chính sách bảo tồn
và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể tại huyện Krông Pắc hiện nay.
- Từ thực tiễn đề xuất, khuyến nghị bổ sung, hoàn thiện thực hiện chính sách
bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể tại huyện Krơng Pắc để di sản phi vật
thể được phát huy giá trị, tiềm năng vốn có của nó, đưa di sản văn hóa phi vật thể là
nét truyền thống văn hóa đặc sắc của vùng miền, địa phương đặc biệt là đối với
huyện Krơng Pắc. Đây có thể là tư liệu cho các nhà quản lý văn hóa ở địa phương
tham khảo.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận văn có 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị
văn hóa phi vật thể.
Chương 2. Thực trạng việcthực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn
hóa phi vật thể trên địa bànhuyện Krơng Pắc, tỉnh Đắk Lắk.
Chương 3. Giải pháp hoàn thiện việc thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá
trị văn hóa phi vật thể trên địa bànhuyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới.

15


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT
HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA PHI VẬT THỂ
1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1. Khái niệm Chính sách công
Ở các nước phát triển và các tổ chức kinh tế quốc tế, thuật ngữ “Chính sách
cơng” được sử dụng rất phổ biến. Có thể nêu ra một số quan niệm sau:
Chính sách cơng là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau của một nhà
chính trị hay một nhóm các nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn các mục tiêu và các
giải pháp để đạt các mục tiêu đó (William Jenkin, 1978). [University Press, 1995, p.5]


Chính sách cơng là một tập hợp các quyết định liên quan với nhau do Nhà
nước ban hành, bao gồm các mục tiêu và giải pháp để giải quyết một vấn đề công
nhằm đạt được các mục tiêu phát triển [41, tr.10].
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để
thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất
định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của
chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn
hóa...” [47, tr.475]
Chính sách cơng là một q trình hành động hoặc khơng hành động của chính
quyền để đáp lại một vấn đề cơng cộng. Nó được kết hợp với các cách thức và mục
tiêu chính sách đã được chấp thuận một cách chính thức, cũng như các quy định và
thông lệ của các cơ quan chức năng thực hiện những chương trình (Kraft and
Furlong, 2004). [56, tr.1-9]
Tác giả Nguyễn Hữu Hải định nghĩa chính sách cơng có thể được nhìn nhận
như sau:
Trước hết, là một chính sách của nhà nước, của chính phủ (do nhà nước, do
chính phủ đưa ra), là một bộ phận thuộc chính sách kinh tế và chính sách nói chung
của mỗi nước.
Thứ hai, về mặt kinh tế, chính sách cơng phản ánh và thể hiện hoạt động cũng
như quản lý đối với khu vực công, phản ánh việc đảm bảo hàng hóa, dịch vụ cơng
cộng cho nền kinh tế.
16


Thứ ba, là một công cụ quản lý của nhà nước, được nhà nước sử dụng để:
Khuyến khích việc sản xuất, đảm bảo hàng hóa, dịch vụ cơng cho nền kinh tế,
khuyến khích cả với khu vực cơng và cả với khu vực tư; Quản lý nguồn lực công
một cách hiệu quả, hiệu lực, thiết thực đối với cả kinh tế, chính trị, xã hội, mơi
trường, cả trong ngắn hạn lẫn trong dài hạn. Nói cách khác chính sách cơng là một

trong những căn cứ đo lường năng lực hoạch định chính sách, xác định mục tiêu,
căn cứ kiểm tra, đánh giá, xác định trách nhiệm trong việc sử dụng nguồn lực công
như ngân sách nhà nước, tài sản công, tài nguyên đất nước. [17, tr.14]
Tác giả Hồ Việt Hạnh đưa ra khái niệm về chính sách cơng như sau: “Chính
sách cơng là những quyết định của chủ thể được trao quyền lực cơng nhằm giải
quyết những vấn đề vì lợi ích chung của cộng đồng” [22, tr.3-6.]. Đây là khái niệm
chung nhất liên quan đến chính sách cơng và tác giả luận văn đồng tình sử dụng
khái niệm này.
Tác giả Nguyễn Khắc Bình đưa ra khái niệm về chính sách cơng như sau:
“Chính sách cơng là hoạt động mà chính phủ chọn thực hiện hoặc khơng thực hiện
để điều hòa các xung đột trong xã hội nhằm thúc đẩy xã hội phát triển theo định
hướng nhất định”.[5]
1.1.2. Khái niệm thực hiện chính sách cơng
Tác giả Nguyễn Khắc Bình đã định nghĩa về thực hiện chính sách cơng như sau:

Thực hiện chính sách là tồn bộ q trình chuyển hóa ý chí của chủ thể trong
chính sách thành hiện thực với các đối tượng quản lí nhằm đạt được mục tiêu định
hướng của Nhà nước.
Trong nghiên cứu này, người viết theo quan điểm của tác giả Nguyễn Khắc
Bình để phân tích và đánh giá thực trạng thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy
giá trị văn hóa phi vật thể tại huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk.
1.1.3. Khái niệm Chính sách văn hóa
Chính sách văn hóa là tổng thể các nguyên tắc hoạt động, các cách thực hành,
các phương pháp quản lý hành chính và phương pháp ngân sách của Nhà nước dùng
làm cơ sở cho các hoạt động văn hóa nghệ thuật (UNESCO).

17


Chính sách văn hóa có các cơng cụ khác nhau, gồm: Luật pháp và các phương

pháp hành chính; ngân sách và hệ thống thuế, trong đó các bộ luật, luật, văn bản
pháp quy; cách thức đầu tư từ ngân sách, hệ thống thuế là công cụ quan trọng nhất
để điều hành sự phát triển văn hóa.
Các chính sách văn hóa đều là các thực hành nhà nước dựa trên các nguồn lực
về tài chính, vật lực và nhân lực, trong những điều kiện có thể có của thời điểm.
Các tổ chức văn hóa dựa vào các nguồn lực này mà triển khai các hoạt động thực thi
chính sách.
Trong những hồn cảnh của Việt Nam, khái niệm chính sách văn hóa đã được
xác định dựa trên các quan niệm về văn hóa, về vai trị của văn hóa trong phát triển
đất nước, xây dựng con người mới của chế độ mới. Trong bối cảnh nước ta, văn hóa
được coi là một lĩnh vực của cơng tác tư tưởng, văn hóa là một mặt trận, bên cạnh
các chức năng đặc thù khác về mặt thẩm mỹ, giải trí, tái tạo sáng tạo.
Từ đặc điểm này, có thể định nghĩa về chính sách văn hóa: “Chính sách văn
hóa là một hệ thống các nguyên tắc, các thực hành của nhà nước trong lĩnh vực văn
hóa nhằm phát triển và quản lý thực tiễn của đời sống văn hóa theo những quan
điểm phát triển và cách thức quản lý riêng, đáp ứng nhu cầu phát triển đời sống
văn hóa tinh thần của nhân dân trên cơ sở vận dụng các điều kiện vật chất và tinh
thần sẵn có của xã hội”.
1.1.4. Khái niệm di sản văn hóa phi vật thể
1.1.4.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa là một từ có nhiều cách hiểu, từ xưa đến nay, không chỉ ở nghĩa từ
nguyên mà cho đến khi được các học giả định nghĩa. Tác giả Phan Ngọc nhận định,
hiện nay có khơng dưới 400 định nghĩa về văn hóa [Phan Ngọc (2019), Bản sắc văn
hóa Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội, tr. 24]. Điều này chứng minh vai trị to lớn của
văn hóa cũng như sự quan tâm của nhiều tổ chức, nhiều người về vấn đề gọi tên là
văn hóa. Mỗi định nghĩa thể hiện quan điểm riêng của học giả về văn hóa.
Theo tác giả Taylor định nghĩa: “Văn hóa, hay văn minh, theo nghĩa rộng về
tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật

18



pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác được con người chiếm lĩnh với
tư cách một thành viên của xã hội”[16, tr. 13].
Trong “Thập kỷ thế giới vì sự phát triển văn hóa”, ơng Phederico Mayor
Laragoza nguyên Tổng giám đốc UNESCO đưa ra khái niệm: “Văn hóa là tổng thể
sống động các hoạt động sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ
hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống
và các thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”.
Định nghĩa này rất phù hợp với quan điểm của Hồ Chí Minh nêu ra cách đó
trên 40 năm: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích cuộc sống, loài người mới sáng tạo
và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó, tức là văn hóa.
Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó
mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với nhu cầu đời sống và đòi hỏi của
sự sinh tồn”. [ Nhật ký trong tù - HCM]
Trong cuốn “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam”, Trần Ngọc Thêm cho rằng:
Văn hoá là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần được sáng tạo, tích luỹ trong
lịch sử nhờ quá trình hoạt động thực tiễn của con người. Các giá trị này được cộng
đồng chấp nhận, vận hành trong đời sống xã hội và truyền lại cho thế hệ sau. Văn
hố thể hiện trình độ phát triển và những đặc tính riêng của mỗi dân tộc. Từ đó Trần
Ngọc Thêm đưa ra định nghĩa như sau: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị
vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua q trình hoạt động
thực tiễn, trong sự tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội” [ 7 ].
Từ những quan niệm về văn hóa, chúng ta thấy văn hóa có mặt trong tồn bộ
đời sống của xã hội loài người. Mọi sự sáng tạo có giá trị của con người đều là văn
hóa. Tuy nhiên cũng cần phải khu biệt khái niệm để công việc nghiên cứu văn hóa
tránh sự trùng lặp với nhiều ngành khoa học khác. Văn hóa, theo cách hiểu thơng
thường nhất, chính là bộ mặt tinh thần và vật chất của xã hội. Văn hóa làm nên diện

mạo của dân tộc này so với dân tộc khác. Văn hóa phản ánh mọi mặt đời sống của
một dân tộc.
19


Có thể nói, những quan niệm về văn hố vừa rất linh hoạt vừa có nhiều nghĩa,
nên khó có thể có được một định nghĩa cụ thể mà bao hàm đầy đủ ý nghĩa của nó.
Hơn thế nữa, văn hố là kết quả của quá trình lao động và hoạt động xã hội của con
người, nên đề cập đến vấn đề này, các nhà lãnh đạo Đảng và nhà nước ta đã khẳng
định: “văn hoá sản sinh ra trong quá trình con người tác động vào tự nhiên và tiến
hành đấu tranh xã hội”.
Từ những khái niệm đó, theo chúng tơi, văn hố dùng để chỉ sự phản ánh tổng
thể những năng lực bản chất của con người trong tất cả các dạng hoạt động, là tổng
thể các hệ thống giá trị (cả giá trị vật chất lẫn giá trị tinh thần) do con người sáng
tạo ra trong quá trình hoạt động thực tiễn lịch sử xã hội của mình.
1.1.4.2. Văn hố phi vật thể
Văn hóa như một hệ thống thường được chia làm hai dạng: văn hóa vật chất và
văn hóa tinh thần. Hoặc văn hóa vật thể và VHPVT. VHPVT bao gồm toàn bộ
những sản phẩm do hoạt động sáng tạo tinh thần của con người. Bao gồm các biểu
hiện tượng trưng và “không sờ thấy được” của văn hoá được lưu truyền và biến đổi
qua thời gian, với một quá trình tái tạo, “trùng tu” của cộng đồng. Những di sản văn
hố tạm gọi là vơ hình này theo UNESCO bao gồm tư tưởng, tín ngưỡng - tôn giáo,
nghệ thuật, lễ hội, phong tục, tập quán, đạo đức, ngơn ngữ, văn chương,...
Tác giả Nguyễn Trọng Hồng cho rằng, VHPVT là những sáng tạo của con
người nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt xã hội của con người như tôn giáo, triết học,
nghệ thuật, âm nhạc, luật pháp, đạo đức, phong cách, lối sống, phong tục tập quán
[Nguyễn Trọng Hồng (2011), Bài giảng cơ sở văn hóa Việt Nam, Trường Đại học
Đà Lạt, ,
Truy cập ngày 05/04/2021],…
Tác giả Ngô Đức Thịnh định nghĩa VHPVT “là một dạng tồn tại (hay thể hiện)

của văn hóa khơng phải dưới dạng vật thể có hình khối tồn tại tong khơng gian và
thời gian, mà nó tiềm ẩn trong trí nhớ, tập tính, hành vi, ứng xử của con người và
thơng quan các hoạt động sống của con người trong sản xuất, giao tiếp xã hội trong
hoạt động tư tưởng và văn hóa-nghệ thuật mà thể hiện ra khiến người ta nhận biết
được sự tồn tại của nó”[45, tr. 91].
20


Cũng theo tác giả Ngô Đức Thịnh, các dạng thức chính của VHPVT bao gồm
Ngữ văn truyền miệng (thần thoại, cổ tích, truyền thuyết, ca dao, thành ngữ, tục
ngữ, hị, vè, ngụ ngôn...); Diễn xướng dân gian: ca múa, nhạc, sân khấu (nghệ thuật
diễn xướng), các hoạt động lễ hội, nghi lễ, trị diễn, phong tục (trình diễn); Những
hành vi ứng xử của con người, đó là ứng xử giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân trong
cộng đồng, ứng xử giữa các cộng đồng; Những hành vi và chuẩn mực ứng xử của
con người thường gắn liền với phong tục, tập quán, nghi lễ và chịu chi phối bởi các
hình thức tơn giáo, tín ngưỡng [45, tr. 92].
Đặc trưng của VHPVT không tồn tại dưới dạng vật chất, vật thể cụ thể (khơng
kể một số hình thức đã được văn bản hóa) mà nó tiềm ẩn trong trí nhớ và tâm thức
của con người và chỉ bộc lộ thông qua hành vi và hoạt động (tức diễn xướng) của
con người. Nó mang dấu ấn cá nhân và vai trị sáng tạo của cá nhân rất rõ rệt.
Trong điều 4 của luật di sản văn hóa có ghi rõ: “Di sản VHPVT là sản phẩm
tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết,
được lưu truyền bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu
giữ, lưu truyền khác bao gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học nghệ thuật, khoa
học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết
về nghề thủ công truyền thống, tri thức y học cổ truyền, văn hóa ẩm thực, trang
phục truyền thống dân tộc và những tri thức dân gian khác”.
Tác giả Trần Quốc Vượng (2000) đưa ra khái niệm cho thấy VHPVT là các
biểu hiện tượng trưng của văn hóa, là những yếu tố tinh thần trong văn hóa như: âm
nhạc, múa, ngơn ngữ, huyền thoại, nghi lễ, bí quyết của nghệ nhân trong chế tác

nghề thủ công [55, tr.24]. Và chúng tôi đồng tình với quan điểm này của tác giả.
1.1.4.3. Di sản văn hóa phi vật thể
Di sản văn hóa là tài sản do các thế hệ đi trước để lại, có vai trị vơ cùng quan
trọng trong diễn trình văn hóa của một dân tộc nói riêng và hiểu theo nghĩa rộng là
của cả nhân loại nói chung. Phần mở đầu của Luật Di sản văn hóa Việt Nam đã viết:
"Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và
là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng
nước và giữ nước của nhân dân ta”.
21


Luật Di sản văn hóa của Việt Nam tại Điều 1 đã nêu rõ: “Di sản văn hóa bao
gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật
chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Di sản văn hóa tồn tại dưới hai dạng: di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa
phi vật thể theo quan niệm của UNESCO:
Văn hoá vật thể là các giá trị văn hố tồn tại một cách hữu hình, con người có
thể nhận biết nó một cách cảm tính, trực tiếp thơng qua các giác quan.
Văn hố phi vật thể là các giá trị văn hoá tồn tại một cách vơ hình, chủ yếu
được ghi nhận trong ký ức của xã hội.
Khái niệm di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO sử dụng trong Công ước
quốc tế về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể. Di sản văn hóa phi vật thể được hiểu là
các tập quán, các hình thức thể hiện, biểu đạt, tri thức, kỹ năng và kèm theo đó là
những cơng cụ, đồ vật, đồ tạo tác và các khơng gian văn hóa có liên quan mà các
cộng đồng và các nhóm và trong một số trường hợp là cá nhân công nhận là một
phần di sản văn hóa của họ. Được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, di
sản văn hóa phi vật thể được cộng đồng, các nhóm khơng ngừng tái tạo để thích
nghi với mơi trường và mối quan hệ qua lại giữa cộng đồng với tự nhiên và lịch sử
của họ, đồng thời hình thành trong họ ý thức về bản sắc và sự kế tục, qua đó khích

lệ thêm sự tơn trọng đối với sự đa dạng văn hóa và tính sáng tạo của con người.
Trong Luật Di sản văn hóa năm 2013 tại điều 4 đã nêu rõ:
Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá
nhân, vật thể và khơng gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học,
thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức
khác. [ điều 4, 2013]
1.2. Nội dung Chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật
thê
Bảo tồn di sản văn hóa là một vấn đề được quan tâm ở Việt Nam trong những
năm gần đây. Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc
đều có những di sản văn hóa tạo nên sự đa dạng và phong phú trong kho di sản
chung của cả nước.
22


×