Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh cao bằng (luận văn thạc sỹ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (506.36 KB, 85 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, gồm 54 tộc người cư trú ở khắp các vùng
miền của đất nước với một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, tuy nhiên sự phát
triển kinh tế - xã hội chưa đồng đều giữa các dân tộc, các vùng miền. Trong quá
trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhiều chủ trương, chính
sách nhằm thúc đẩy sự phát triển toàn diện đời sống kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo
dục, y tế… cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, trong đó có việc xây dựng
đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số.
Kế thừa và phát huy tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ, “cán bộ là
cái gốc của mọi công việc”, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức rõ ràng về vai trị, vị
trí của đội ngũ cán bộ, cơng chức là người DTTS trong công cuộc xây dựng, phát
triển đất nước, chính vì thế, kể từ khi Đởi mới đất nước đến nay, Đảng đã có nhiều
chủ trương, chính sách nhằm đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng, phát triển đội ngũ cán
bộ, công chức người dân tộc thiểu số (DTTS). Cụ thể, Nghị quyết số 24-NQ/TW
ngày 12/03/2003 của Ban chấp hành Trung ương khóa IX, Đảng ta đã khẳng định
“thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán là người dân
tộc thiểu số cho từng vùng, từng dân tộc” [2]; Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày
19/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam khóa XII chỉ rõ: “Cấp uỷ các cấp và người đứng đầu phải có kế hoạch đào
tạo, bời dưỡng, sắp xếp, bớ trí, tạo điều kiện, cơ hội phát triển cho cán bộ trẻ, cán
bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số” [4]. Ngày 14/3/2016 Thủ tướng Chính Phủ
đã có Quyết định số: 402/QĐ-TTg về Phê duyệt Đề án Phát triển đội ngũ cán bộ
công chức, viên chức người dân tộc thiểu sớ trong thời kỳ mới. .. Trong q trình
thực hiện Đảng đã chỉ đạo, lãnh đạo các ngành, các địa phương chú trọng xây dựng
quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng, bố trí, sử dụng cán bộ, công
chức người DTTS. Nhờ vậy, sau hơn 30 năm đổi mới đất nước, đến nay đội ngũ cán
bộ, công chức người DTTS được tăng cường cả về số lượng và chất lượng, từng
bước đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay. Bên cạnh đó, vừa qua,
Bộ Chính trị ban hành Kết luận 65 về công tác dân tộc trong tình hình mới đã khẳng



1


định bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì, cơng tác dân tộc, trong đó có cơng
tác đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đáp ứng yêu cầu
thực tiễn vẫn là vấn đề cơ bản, cấp bách đặt ra cần phải giải quyết ở vùng đồng bào
dân tộc thiểu số và miền núi.
Cao Bằng là một tỉnh vùng cao biên giới nước ta, có đơng người dân tộc
thiếu số cư trú và sinh sống, chiếm 94% dân số toàn tỉnh, đồng thời là địa bàn chiến
lược có vị trí quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phịng
của đất nước. Đội ngũ cán bộ, cơng chức, viên chức là người DTTS của tỉnh Cao
Bằng có vai trị quan trọng trong việc góp phần khơng nhỏ vào sự phát triển chung
của tồn tỉnh. Vì thế, trong những năm qua, thực hiện chủ trương, đường lối của
Đảng và chính sách của Nhà nước về cơng tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
là người DTTS, UBND tỉnh Cao Bằng đã tổ chức quán triệt, lồng ghép nhiều văn
bản của Trung ương, của tỉnh đồng thời quan tâm lãnh, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị
thực hiện có hiệu quả các văn bản của Đảng và Nhà nước về cơng tác DTTS gắn
liền nhiệm vụ chính trị được phân công phụ trách. Công tác quy hoạch, đào tạo,
tuyển dụng và bố trí cán bộ người DTTS được các cấp ủy, chính quyền quan tâm và
thực hiện theo nguyên tắc tập trung, dân chủ, khách quan và công khai. Đội ngũ
CBCCVC người DTTS trên địa bàn tỉnh Cao Bằng đã có những chuyển biến tích
cực cả về số lượng và chất lượng, cơ chế ưu tiên, tạo động lực đã khuyến khích
người có trình độ, năng lực phấn đấu, góp phần đởi mới cơng tác cán bộ và nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ DTTS.
Phát triển CBCC người dân tộc thiểu số tại Cao Bằng là một trong những
chính sách quan trọng nhằm khơng chỉ thực hiện các mục tiêu phát triển, rút ngắn
khoảng cách giữa các vùng, miền mà cịn đảm bảo tính đại diện của các dân tộc
trong đời sống chính trị, phát huy và sử dụng nguồn nhân lực hiệu quả cho phát
triển bền vững và duy trì ởn định xã hội.

Tuy nhiên, trên thực tế, so với mục tiêu đặt ra CBCC người dân tộc thiểu số
tại các tỉnh Cao Bằng chiếm tỷ lệ thấp so với số dân là người dân tộc thiểu số . Mặt
khác, trình độ, năng lực, việc làm cũng chưa đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn
hiện nay; công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát triển, quản lý, sử dụng, tuyển dụng đội
ngũ cán bộ người DTTS cịn khơng ít những hạn chế, bất cập: Cơ cấu đội ngũ CB,
2


CC người DTTS không đồng đều giữa các cấp, các cơ quan đảng, cơ quan nhà
nước, các ngành, giữa các dân tộc…cụ thể như: Tỷ lệ CB, CC người DTTS so với
dân số cịn thấp; Trình độ các mặt của đội ngũ CB, CC, VC người DTTS không
đồng đều; Năng lực đội ngũ CB, CC, VC người DTTS có nhiều hạn chế; Nhiều CB,
CC chưa đạt trình độ chun mơn, lý luận chính trị, quản lý nhà nước, tin học,
ngoại ngữ,... theo tiêu chuẩn quy định; tình trạng CB, CC làm việc khơng theo trình
độ chun mơn đào tạo, vị trí việc làm... nên chưa đủ khả năng, năng lực để thực
hiện có hiệu quả các nhiệm vụ mà thực tiễn đang đặt ra, nhất là trong xu thế hội
nhập và phát triển khoa học công nghệ 4.0 hiện nay.
Nguyên nhân của tình trang trên là do việc triển khai và thực hiện chính sách
phát triển CBBCC người dân tộc thiểu số đang có nhiều vướng mắc, bất cập và hạn
chế, đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải nhìn nhận để tìm giải pháp tháo gỡ, tiếp tục
thực hiện có hiệu quả và đạt mục tiêu này trong thời gian tới. Đồng thời để phát huy
được nội lực của đồng bào các dân tộc của tỉnh Cao Bằng, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cần xây dựng được một đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số vững mạnh, từng bước hoàn thiện đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số các cấp,
các ngành đủ phẩm chất, năng lực và trình độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của sự
nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới. Từ lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: "Thực
hiện chính sách phát triển cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số trên địa bàn
tỉnh Cao Bằng" làm đề tài luận văn thạc sĩ ngành chính sách cơng với mong muốn
đề tài góp phần tun truyền và tạo nguồn cán bộ, công chức, đồng thời cung cấp tư
liệu khoa học và thực tiễn giúp chính quyền địa phương nâng cao hiệu quả thực hiện

chính sách đào tạo, bồi dưỡng, phát triển cán bộ, công chức là người DTTS tại tỉnh
Cao Bằng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Những nghiên cứu của các tác giả trong nước
Công tác cán bộ luôn chiếm một vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển
của quốc gia dân tộc. Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: Cán bộ là cái gốc
của cách mạng; Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém mà ra.
Do đó, vấn đề cán bộ, công tác cán bộ luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, chú
ý. Vì thế trong nhiều năm qua, công tác cán bộ được nhiều tác giả khẳng định vai
3


trò, xác định trách nhiệm chủ thể, nội dung… trong các cơng trình cơng bố của
mình. Cụ thể, tác giả Trần Xuân Sầm (1998) đã chủ biên cuốn sách “Xác định cơ
cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chớt trong hệ thớng chính trị đổi mới”; Hay
như cuốn sách “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (2001) của Nguyễn Phú
Trọng, Trần Xn Sầm. Các cơng trình này đã khẳng định rất rõ vị trí, vai trị của
cán bộ và cơng tác cán bộ, đồng thời khẳng định trong bối cảnh đổi mới, hội nhập
hiện nay việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ là rất cần thiết bởi nó ảnh hưởng
và quyết định đến sự phát triển của cả quốc gia, dân tộc.
Trong cuốn sách “Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn về dân tộc và quan hệ dân
tộc ở Việt Nam” tác giả Nguyễn Quốc Phẩm và Trịnh Quốc Tuấn đã nhìn nhận vị trí,
vai trị của đội ngũ cán bộ người DTTS trong việc nâng cao chất lượng hoạt động
của cả hệ thống chính trị ở các vùng DTTS ở nước ta hiện nay [Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1999].
Năm 2008, tác giả Lê Thị Phương Thảo, Nguyễn Cúc, Doãn Hùng đã đồng
chủ biến cuốn sách “Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở nước ta trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa - Luận cứ và giải pháp” (Nxb Lý luận
chính trị, Hà Nội, 2008). Trong cuốn sách này, các tác giả đã đề cập khá cụ thể về

công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Khẳng định việc đổi mới công
tác cán bộ, trong đó có cán bộ là người DTTS trong bối cảnh đổi mới hiện nay là rất
quan trọng, các tác giả đã đưa ra các luận điểm phân tích trên 3 phương diện: (1) Cơ
sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta liên quan đến vấn đề dân tộc, công
tác dân tộc và xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở nước ta thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa; (2) Thực trạng và các giải pháp chủ động xây dựng
đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở nước ta và trên một số lĩnh vực chuyên môn;
(3) Cácgiải pháp cần đổi mới trong công tác cán bộ dân tộc thiểu số thời kỳ đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Lê Mậu Lâm và cộng sự (2017) đã xuất bản cơng trình “Xây dựng đợi ngũ
cán bộ người dân tộc thiểu số”. Trong nội dung cơng trình này các tác giả đã chỉ ra
các ngun nhân hạn chế của đội ngũ cán bộ DTTS, trong đó có nguyên nhân do
4


công tác đào tạo chưa gắn với nhu cầu, thực tiễn sử dụng cán bộ. Bên cạnh đó, các
tác giả cũng đề cập đến nguyên nhân chính là kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng chưa đáp
ứng yêu cầu thực tiễn; nội dung, chương trình và phương thức đào tạo, bồi dưỡng
chưa thật sự phù hợp, nhất là với đặc điểm, tình hình của địa phương, của đối tượng
cần đào tạo. Nhóm tác giả cũng chỉ ra rằng nếu khơng được tăng cường về số lượng,
nâng cao về chất lượng, thì đội ngũ cán bộ người DTTS không những không đủ
năng lực thực thi nhiệm vụ mà cịn có thể trở thành lực cản đối với quá trình phát
triển kinh tế, xã hội cũng như sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, do đó cần phải xây
dựng đội ngũ cán bộ đủ năng lực, trình độ, sâu sát và thấu hiểu đời sống nhân dân.
Vì thế vấn đề ưu tiên cán bộ các cấp người DTTS, nhất là ở cấp cơ sở là cần thiết và
quan trọng.
Bên cạnh đó, có nhiều bài viết đề cập đến công tác bồi dưỡng, đào tạo cán
bộ, CC là người DTTS trên các tạp chí chuyên ngành. Chẳng hạn như: Trương Minh
Dục, Trương Phúc Nguyên (2018), “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức người dân

tộc thiểu số - giải pháp quan trọng bảo đảm quyền bình đẳng dân tợc ở Việt Nam”,
Tạp chí lý luận chính trị số 3; Trịnh Xuân Thắng (2018), “Xây dựng chính sách đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ người dân tộc thiểu sớ”, Tạp chí tở chức Nhà nước; Lê Kim
Việt, Phạm Thị Thu (2019) với “Nâng cao chất lượng cán bộ, công chức cấp xã
người dân tộc thiểu số huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam theo tinh thần Nghị quyết
Trung ương 7 khóa XII”, Tạp chí Tở chức Nhà nước.....
Ngồi các cơng trình sách, tạp chí đã được xuất bản, cịn có nhiều đề tài cấp
Nhà nước, cấp Bộ đã được thực hiện nghiên cứu về công tác cán bộ, công tác đào
tạo, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực cán bộ, tạo nguồn cán bộ được nghiên cứu với
tư cách là một khâu của cơng tác cán bộ, trong đó có cơng tác cán bộ là người dân
tộc thiểu số. Cụ thể Trần Ngọc Uẩn chủ nhiệm đề tài cấp Bộ “Những căn cứ lý luận
và thực tiễn xác định nội dung, chương trình đào tạo cán bộ chủ chốt cơ sở miền
núi đáp ứng yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn hiện nay” năm 1998- 1999.
Trần Đình Hoan chủ nhiệm đề tài Nhà nước (2002) với "Cơ sở lý luận và thực tiễn
đánh giá, luân chuyển cán bộ lãnh đạo quản lý trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước".

5


Tháng 7 năm 2019 Bộ Nội vụ phối hợp cùng Ban Tổ chức Trung ương và
Ban Dân vận Trung ương đồng tổ chức Hội thảo Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số. Hội thảo đã thu hút được nhiều bài tham luận , trong đó đã tập trung vào
một số vấn đề trọng tâm như: Đánh giá về chính sách quy hoạch, đào tạo, bồi
dưỡng, sử dụng, đãi ngộ đối với cán bộ, công chức người DTTS; Xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức, viên chức DTTS trong thời kỳ mới và công tác đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở ở vùng đồng bào DTTS trên cả nước; Giải pháp xây
dựng đội ngũ CBCCVC ở vùng đồng bào DTTS; Đánh giá kết quả công tác quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp, sử dụng và phát triển đội ngũ cán bộ người
DTTS; Một số vấn đề về xây dựng đội ngũ nữ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong vùng

đồng bào DTTS, đáp ứng được u cầu đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Ngồi ra, cũng có nhiều NCS, học viên cao học lựa chọn mảng vấn đề này để
làm đề tài luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ. Chẳng hạn như “Vấn đề tạo nguồn cán
bộ các xã vùng sâu, vùng xa đặc biệt khó khăn - thực trạng và giải pháp” của Trần
Thị Hương (2009); “Tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện ở tỉnh Bạc Liêu
hiện nay” của Trần Hoàng Khải (2010); Hoàng Minh Tùng (2014), Đào tạo, bồi
dưỡng công chức là người dân tộc thiểu sớ ở Gia Lai; Võ Trí Thơng (2019), “Thực
hiện chính sách đào tạo, bời dưỡng cán bợ, cơng chức cấp xã là người dân tộc thiểu
số từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk” Phạm Hữu Hải (2017), “Bồi dưỡng công chức cấp xã
là người dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng”, Nguyễn Văn An (2017),
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã người dân tộc thiểu số ở
tỉnh Điện Biên trong điều kiện mới, Lưu Tấn Lại (2017), Giải pháp chính sách đào
tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã người DTTS từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam, Briu
Dết (2020), Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức cấp xã là
người DTTS ở huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam..... Tất cả các cơng trình nêu
trên đã xây dựng khái niệm nguồn, tạo nguồn; xác định nội dung tạo nguồn: phát
hiện, lựa chọn; đánh giá; quy hoạch; đào tạo, bồi dưỡng; quản lý; bố trí, sử dụng
cán bộ… để cho thấy tạo nguồn cán bộ được nghiên cứu với tư cách là một khâu
của công tác cán bộ.

6


2.2. Những nghiên cứu của các tác giả nước ngoài
Vấn đề nhân lực, chất lượng nhân lực và việc phát triển nguồn nhân lực liên
quan đến cán bộ và công tác cán bộ cũng được nhiều tác giả nước ngoài quan tâm
nghiên cứu. Chẳng hạn như tác giả Mitokaza Aoki đã xuất bản cuốn sách “Nguyên
tắc quản lý kiểu Nhật” năm1993; Matsushita Konouke với cuốn sách “Nhân sự chìa khóa của thành công” năm 1999; Yasuhiko Inoue với bài viết “Kinh nghiệm
Nhật Bản về phát triển nguồn nhân lực (HRD)”. Khơng chỉ có các tác giả Nhật Bản,

nhiều tác giả Lào cũng đã công bố nhiều bài viết về công tác cán bộ, đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức. Cụ thể như “Công tác tổ chức cán bộ cấp tỉnh ở Cợng
hịa dân chủ nhân dân Lào hiện nay” của Unkẹo Sipasợt (Tạp chí xây dựng Đảng
điện tử, 24-8-2009); “Đột phá về công tác cán bộ” của Litthi Sisouvong (Tạp chí
Xây dựng Đảng điện tử, 02-12-2011); Luận án tiến sĩ “Đổi mới hệ thớng chính trị
cấp cơ sở ở nông thôn Lào hiện nay” (2011) của La Chay Sinh Su Van... đều nhấn
mạnh công tác cán bộ là giải pháp cho chất lượng HTCT. Các tác giả Trung Quốc
tại Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc:
“Xây dựng đảng cầm quyền - kinh nghiệm của Việt Nam, kinh nghiệm của Trung
Quốc” (2004), đề cập đến nhiều kinh nghiệm trong xây dựng đội ngũ cán bộ.
Có thể nói các cơng trình nói trên cung cấp nhiều tư liệu có giá trị về mặt lí
luận và khoa học sâu sắc đối với đề tài luận văn, đã đề cập cơ sở lý luận về đào tạo,
bồi dưỡng, vị trí vai trị cán bộ, cơng chức là người dân tộc thiểu số, phân tích thực
trạng đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số và thực hiện chính sách đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số và đề xuất những định
hướng, quan điểm, giải pháp hoàn thiện, nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện
chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số. Song
hướng nghiên cứu về thực hiện chính sách phát triển cán bộ, cơng chức người dân
tộc thiểu số ở tỉnh Cao Bằng trong giai đoạn hiện nay thì chưa có cơng trình nào
được xuất bản, cơng bố. Do đó luận văn "Thực hiện chính sách phát triển cán bộ,
công chức người dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Cao Bằng" là nghiên cứu mới có
đóng góp về khoa học và thực tiễn.

7


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn phân tích làm rõ thực trạng thực hiện chính sách phát triển cán bộ,
cơng chức là người dân tộc thiểu số ở tỉnh Cao Bằng, từ đó cho thấy những thành

tựu và hạn chế của quá trình thực hiện chính sách, thấy được những nguyên nhân
tác động đến q trình thực hiện chính sách và qua đó đề xuất giải pháp nhằm xây
dựng, phát triển đội ngũ cán bộ, công chức dân tộc thiểu số cũng như quy trình thực
hiện chính sách phát triển cán bộ, cơng chức là người dân tộc thiểu số của tỉnh Cao
Bằng đáp ứng yêu cầu phát triển của địa phương trong bối cảnh đổi mới và hội nhập
hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận văn hệ thống hóa các cơng trình cơng bố có liên quan đến đề tài để
thấy được những đóng góp của các cơng trình đó về khoa học và thực tiễn, từ đó xác
định những hướng đi mới, đóng góp mới của luận văn này.
- Luận văn hệ thống hóa được các khái niệm then chốt có liên quan đến đề tài
để làm cơ sở, căn cứ phân tích, đánh giá các nội dung của luận văn nhằm đáp ứng
đúng, đủ các mục tiêu mà luận văn đề ra
- Hệ thống hóa các chính sách Phát triển cán bộ công chức là người DTTS đã
và đang được thực hiện của Trung ương và của tỉnh Cao Bằng.
- Khảo sát, đánh giá quy trình và thực trạng tở chức thực hiện chính sách
phát triển cán bộ, cơng chức là người DTTS tại tỉnh Cao Bằng.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp hồn thiện, nâng cao hiệu quả tở chức
thực hiện chính sách phát triển cán bộ cơng chức là người DTTS ở tỉnh Cao Bằng
trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Q trình thực hiện chính sách phát triển CBCC là
người dân tộc thiểu số tại tỉnh Cao Bằng.
Cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số ở tỉnh Cao Bằng
- Phạm vi nghiên cứu
+ Về nội dung: Phát triển cán bộ, công chức là người DTTS trong bối cảnh
đổi mới và hội nhập hiện nay luôn cần gắn với cơng tác đào tạo, bồi dưỡng, do đó
8



trong nội dung luận văn tập trung vào các mảng vấn đề: đào tạo, bồi dưỡng, tuyển
dụng, sử dụng cán bộ, công chức là người DTTS.
+ Về không gian: tỉnh Cao Bằng
+ Về thời gian: Luận văn phân tích thực trạng thực hiện chính sách đào tạo,
bồi dưỡng, phát triển cán bộ, công chức là người DTTS từ năm 2016 đến năm 2020:
Giai đoạn 2016 – 2020 là giai đoạn toàn tỉnh Cao Bằng thực hiện Nghị quyết Đại
hội XII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII, Nghị quyết của
Hội đồng nhân dân tỉnh về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016 2020, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc Cao Bằng đã nêu cao tinh thần
đoàn kết, năng động, sáng tạo vượt qua nhiều khó khăn, thử thách và đạt được nhiều
thành tựu quan trọng, trong đó đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc
không ngừng được cải thiện và nâng lên rõ rệt.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về dân tộc và chính sách dân tộc; về công
tác cán bộ và cán bộ dân tộc thiểu số. Đồng thời vận dụng khái niệm, lý thuyết của
khoa học chính sách cơng,... và các thơng tin dữ liệu thu thập được phản ánh thực
tiễn vấn đề cần nghiên cứu tại địa phương.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
- Tác giả luận văn đã thu thập các thông tin từ sách báo, tạp chí chuyên ngành,
luận án, luận văn, các nghị quyết, văn kiện của Đảng và các báo cáo về thực trạng
thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng, phát triển cán bộ, công chức người DTTS
của các cơ quan, đơn vị. Trên cơ sở nguồn tư liệu thu thập được, tác giả luận văn đã
phân loại, tổng hợp, phân tích và đánh giá nhằm làm rõ kết quả, hạn chế của q
trình thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số ở
tỉnh Cao Bằng.
- Phương pháp thu thập, xử lý số liệu: thu thập các thông tin định lượng về
thực trạng đội ngũ cán bộ là người DTTS.


9


- Phương pháp khảo sát tại thực tiễn nhóm đội ngũ cán bộ, công chức là
người DTTS đã và đang công tác ở các cơ quan, ban ngành của tỉnh Cao Bằng như
Sở Nội Vụ, Ban Dân tộc, Ban Tổ chức tỉnh ủy, huyện ủy…. để có sự nhận xét, đánh
giá đúng đắn về kết quả đạt được và những tồn tại, hạn chế trong q trình thực hiện
chính sách phát triển cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn hệ thống hóa quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và chủ
trương của tỉnh Cao Bằng về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức là người dân tộc
thiểu số. Qua đó góp phần làm rõ nội dung, phương thức và quá trình lãnh đạo và
chỉ đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số từ năm 2016
đến năm 2020.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn giúp cho các cấp ủy Đảng và chính quyền
trong tỉnh tham khảo, vận dụng vào thực tiễn lãnh đạo, tổ chức xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số đảm bảo về số lượng và chất lượng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn có
kết cấu 3 chương sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công chức
người DTTS ở tỉnh Cao Bằng.
Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách phát triển cán bộ, cơng chức
người DTTS ở tỉnh Cao Bằng.
Chương 3. Giải pháp thực hiện nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả chính
sách phát triển cán bộ, công chức người DTTS ở tỉnh Cao Bằng trong thời gian tới.

10



Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
PHÁT TRIỂN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH CAO BẰNG
1.1. Các khái niệm
1.1.1 Khái niệm về Chính sách cơng
- Chính sách
Chính sách là một thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trong hầu hết các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn còn nhiều cách hiểu,
nhiều cách định nghĩa khác nhau về chính sách. Chính sách có thể được hiểu là “tập
hợp các hành động nhằm giải quyết vấn đề, đạt được các mục tiêu nhất định”, hay là
“nỗ lực được lên kế hoạch một cách có chủ đích nhằm thiết lập các ngun tắc và
chương trình đã được thiết kế để giải quyết các vấn đề được quan tâm” [31].
Tác giả James Anderson (2003) định nghĩa: “Chính sách là một q trình
hành động có mục đích theo đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết
các vấn đề mà họ quan tâm”.
Tác giả Nguyễn Minh Thuyết (năm 2011) định nghĩa: “Chính sách là đường
lối cụ thể của một chính đảng hoặc một chủ thể quyền lực về một lĩnh vực nhất định
cùng các biện pháp, kế hoạch thực hiện đường lối ấy”.
Từ điển Tiếng Việt do Hồng Phê chủ biên: “Chính sách là sách lược và kế
hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung
và tình hình thực tế mà đề ra” [Nxb. Đà Nẵng – Trung tâm từ điển học, Hà Nội - Đà
Nẵng, 2003].
Tuy cách diễn giải khác nhau nhưng các định nghĩa nhìn chung đều thống
nhất cho rằng: Chính sách là tồn bộ các phương thức được sử dụng để giải quyết
vấn đề và đạt được các mục tiêu mong đợi.
- Chính sách cơng
Hiện nay trên thế giới, có nhiều cách định nghĩa khác nhau về chính sách

cơng. Trong đó, có những định nghĩa tập trung vào cách diễn giải chung nhất hoặc
có những định nghĩa tập trung vào những diễn giải cụ thể. Theo James Anderson
(1984): “Chính sách cơng là đường lối hành động có mục đích được ban hành bởi
11


một hoặc một tập hợp các nhà hoạt động chính trị để giải quyết một vấn đề phát
sinh hoặc vấn đề cần quan tâm”. Hay như B. Guy Peters (1990) định nghĩa: “Chính
sách cơng là tồn bộ các hoạt động của nhà nước có ảnh hưởng một cách trực tiếp
hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi người dân”. Tác giả Nguyễn Hữu Hải cho
rằng: “Chính sách cơng là kết quả ý chí chính trị của Nhà nước được thể hiện bằng
một tập hợp các quyết định có liên quan với nhau, bao hàm trong đó định hướng
mục tiêu và cách thức giải quyết những vấn đề công trong xã hội”. Theo tập bài
giảng tởng quan về chính sách cơng của Học viện khoa học xã hội thì: “Chính sách
cơng là những quyết định của chủ thể được trao quyền lực cơng nhằm giải quyết
những vấn đề vì lợi ích chung của cộng đồng”.
Như vậy, có khá nhiều định nghĩa về chính sách cơng nhưng các định nghĩa
đều có một số điểm chung đáng chú ý đó là: Chủ thể ban hành và thực thi chính
sách cơng là Nhà nước; Chính sách cơng là tập hợp các quyết định liên quan đến
nhau về việc có hành động hay khơng hành động; Chính sách cơng là tập hợp hành
động có chủ đích được định hướng giải quyết vấn đề. Từ những điểm chung điểm
chung nên trên, chúng tơi hiểu về chính sách cơng như sau: Chính sách cơng là tập
hợp các quyết định liên quan đến nhau của nhà nước về việc lựa chọn các mục tiêu
và giải pháp nhằm giải quyết vấn đề thuộc lợi ích cơng cộng.
1.1.2. Khái niệm về Đào tạo, bồi dưỡng, phát triển
- Đào tạo, bồi dưỡng
- Theo Đại từ điển do Nguyễn Như Ý chủ biên: Đào tạo là dạy dỗ, rèn luyện
để trở nên người có hiểu biết, có nghề nghiệp; cịn Bồi dưỡng là làm cho khỏe thêm,
mạnh thêm và tốt hơn, giỏi hơn (Nxb. Văn hóa -Thơng tin, Hà Nội, 1998). Từ điển
tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên: Đào tạo là làm cho trở thành người có năng lực

theo những tiêu chuẩn nhất định; Bồi dưỡng là làm cho tăng thêm sức của cơ thể
bằng chất bổ và tăng thêm năng lực hoặc phẩm chất [Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà
Nội, 2010, tr.82-289]. Nghị định 18/2010/NĐ-CP, ngày 05/03/2010 của Chính phủ
về đào tạo, bồi dưỡng công chức đã đưa ra khái niệm: “Đào tạo là q trình truyền
thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri thức, kỹ năng theo quy định của từng cấp học,
bậc học”; “Bồi dưỡng là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng
làm việc” [tr.2]. Trước đây, trong ĐTBD công chức, chúng ta hay sử dụng khái
12


niệm đào tạo lại với nghĩa là một quá trình ĐTBD công chức thay đổi dạng hoạt
động nghề nghiệp hay phương thức hoạt động nghề nghiệp (bao gồm tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo…) để phù hợp với những thay đổi của môi trường.
Như vậy, trên cơ sở các khái niệm nêu trên, tác giả luận văn này hiểu khái
niệm: Đào tạo là quá trình tác động đến con người nhằm làm cho người đó lĩnh hội
và nắm vững những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo…một cách có hệ thống, chuẩn bị cho
người đó thích nghi với cuộc sống và có khả năng nhận sự phân cơng lao động nhất
định, hồn thành tốt nhiệm vụ, công vụ được giao; Bồi dưỡng là q trình liên tục
nâng cao trình độ chun mơn, kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, nâng cao năng lực
nói chung trên cơ sở của mặt bằng kiến thức đã được đào tạo trước đó. Trong hoạt
động ĐTBD cơng chức có nhiệm vụ cập nhật, trang bị thêm, trang bị mới về kiến
thức, kỹ năng thực thi nhiệm vụ, công vụ của người công chức.
Mặc dù đào tạo, bồi dưỡng là hai khái niệm độc lập và riêng biệt, tuy nhiên
khi bàn về vấn đề thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng, nhất là cho cán bộ, công
chức là người DTTS thì khơng nhất thiết tách bạch ra một cách độc lập mà có thể
hiểu nó trong một chỉnh thể thống nhất. Với quan niệm này, luận văn tiếp cận khái
niệm đào tạo, bồi dưỡng như sau: đào tạo, bồi dưỡng chính là q trình truyền thụ,
tiếp nhận có hệ thống những tri thức, kỹ năng phân tích, xử lí và làm việc theo quy
định của từng cấp học, bậc học; đồng thời đó cũng chính là q trình vừa trang bị
vừa cập nhật những kiến thức, kỹ năng mới. Trải qua quá trình đào tạo, bồi dưỡng,

người học có thể đạt được một trình độ kiến thức, chun môn, nghề nghiệp theo
chuẩn quy định để xử lý công việc thực tiễn một cách mềm dẻo, nhạy bén, linh hoạt.
- Phát triển là quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của một sự vật. Q trình vận động
đó diễn ra vừa dần dần, vừa nhảy vọt để đưa tới sự ra đời của cái mới thay thế cái
cũ. Sự phát triển là kết quả của q trình thay đởi dần về lượng dẫn đến sự thay đởi
về chất, q trình diễn ra theo đường xoắn ốc và hết mỗi chu kỳ sự vật lặp lại dường
như sự vật ban đầu nhưng ở mức (cấp độ) cao hơn.

13


Như đã đề cập ở phần phạm vi nghiên cứu nên trong nội dung của luận văn
này chúng tôi sử dụng khái niệm phát triển cán bộ, công chức người DTTS... đương
nhiên sẽ chú ý đến việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức người DTTS.
1.1.3. Khái niệm Dân tộc thiểu số
Đại từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “dân tợc thiểu sớ là dân tợc có sớ dân ít,
cư trú trong cợng đờng q́c gia nhiều dân tợc (có mợt dân tợc đa sớ) sớng trong
vùng hẻo lánh, ngoại vi, vùng ít phát triển về kinh tế - xã hội” [Trung tâm Từ điển
và Ngôn ngữ Hà Nội (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa Thơng tin;
tr.520].
Nghị định 05/2011/NĐ-CP ngày 14-01-2011 của Chính phủ về công tác dân
tộc, tại khoản 2 và khoản 3 Điều 4: “Dân tộc thiểu số” là những dân tộc có số dân ít
hơn so với dân tộc đa số trên phạm vi lãnh thở nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. “Dân tộc đa số” là dân tộc có số dân chiếm trên 50% tổng dân số của cả nước,
theo điều tra dân số quốc gia. [7]
Việt Nam có 54 dân tộc, trong đó người Kinh là dân tộc đa số, cịn lại 53 dân
tộc khác có số dân ít hơn được gọi là (DTTS).
1.1.4. Khái niệm về Cán bộ, công chức
- Luật cán bộ, công chức được Quốc hội nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam khóa XII, kì họp thứ 4, ngày 13/11/2008 thơng qua đã nêu khái niệm cán
bộ cấp tỉnh và cấp huyện như sau:
- Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức
vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tở chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
(sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà
[15].
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật cán bộ, công chức và Luật viên chức,
nêu khái niệm công chức như sau:
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch,
chức vụ, chức danh tương ứng với vị trí việc làm trong cơ quan của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nhà nước, tở chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
14


trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân
nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phịng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Cơng an
nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan phục vụ theo chế độ chuyên nghiệp,
công nhân, công an, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước [16].
- Cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số
Như vậy, khái niệm Cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số là một khái
niệm kép, tập hợp của khái niệm “cán bộ”, “công chức” và “dân tộc thiểu số”. Từ
những phân tích như trên, có thể đi đến một quan niệm chung về cán bộ, công chức
dân tộc thiểu số, như sau: “cán bộ, công chức dân tộc thiểu số” là những cán bộ,
công chức được quy định tại Luật cán bộ, công chức đang công tác trong một tổ
chức xác định của hệ thống chính trị, có thành phần xuất thân từ các dân tộc thiểu
số ở Việt Nam. Trong một số văn kiện của Đảng và Nhà nước, cụm từ "cán bộ dân
tộc thiểu số" được thay thế bằng cụm từ "cán bộ là người dân tộc thiểu số". Xét về
ngữ nghĩa, đây là hai cụm từ đồng nghĩa. Xét về nội hàm khái niệm, đây là hai khái

niệm có cùng một nội hàm, có thể thay thế cho nhau.
1.1.5. Khái niệm chính sách phát triển CB,CC người DTTS
Phát triển cán bộ, công chức người dân tợc thiểu sớ là q trình gia tăng giá
trị về kiến thức, trí tuệ, kỹ năng, đạo đức, phẩm chất cho cán bộ, công chức người
dân tộc thiểu số giúp cho họ có những phẩm chất và năng lực cao, đáp ứng được
yêu cầu nhiệm vụ phát triển mới.
Chính sách phát triển CB, CC người DTTS là tập hợp những quyết định do
Nhà nước ban hành để lựa chọn mục tiêu, giải pháp, công cụ nhằm giải quyết vấn
đề thực tiễn của CB,CC người DTTS, từ đó xây dựng một đội ngũ CB,CC người
DTTS có đủ số lượng và cơ cấu hợp lý, đảm bảo chất lượng, được chuẩn hố đồng
bộ về trình độ, kỹ năng, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội trong giai đoạn nhất
định.
1.2. Chính sách phát triển CB,CC người DTTS
1.2.1. Đặc điểm của chính sách phát triển CB,CC người DTTS
- Chính sách phát triển CB,CC người DTTS là chương trình, mục tiêu hành
động của Đảng và Nhà nước hướng vào giải quyết các vấn đề thực tiễn đã và đang
đặt ra đối với CB,CC người DTTS.
15


- Mục tiêu của chính sách phát triển CB,CC người DTTS là nhằm tạo ra sự
thay đổi, chuyển biến để hiện thực hóa mục tiêu xây dựng một đội ngũ CB,CC
người DTTS có đủ số lượng, cơ cấu hợp lý, đảm bảo chất lượng, được chuẩn hố
đồng bộ về trình độ, kỹ năng, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội. Mục tiêu cơ
bản, đầu tiên của chính sách này là giúp cho CB,CC người DTTS điều chỉnh hành
vi phù hợp để đáp ứng những yêu cầu, nhiệm vụ chính trị đã được xác định về vị trí
việc làm, vị trí chức danh của họ trong tở chức, cơ quan của hệ thống chính trị.
- Chính sách phát triển CB,CC người DTTS có một số nội dung sau:
Thứ nhất, Quy hoạch phát triển nhân lực CB,CC người DTTS để tập hợp,
đào tạo, bố trí sử dụng CB,CC người DTTS như dự kiến: số lượng và cơ cấu, đảm

bảo về trình độ chun mơn, trình độ lý luận chính trị và kỹ năng làm việc;... nhằm
đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đặt ra.
Thứ hai, Thu hút, tuyển dụng CB,CC người DTTS phù hợp với vị trí việc
làm, năng lực và trình độ chun mơn. Thực tế cho thấy nếu chính sách thu hút
nhân sự người DTTS phù hợp với yêu cầu vị trí việc làm/ chức danh nghề nghiệp và
đáp ứng được nhu cầu tối thiểu của họ thì sẽ tuyển dụng được đội ngũ CB,CC người
DTTS đáp ứng nhu cầu, đủ số lượng và có cơ cấu hợp lý, đảm bảo chất lượng về
trình độ và kỹ năng.
Thứ ba, Sử dụng và đánh giá CB,CC người DTTS: Việc sử dụng hợp lý, theo
quy định của chính sách, pháp luật thì việc đánh giá chất lượng CB,CC người DTTS
sẽ rõ ràng, cụ thể và trên cơ sở đó sẽ khắc phục và phịng tránh tình trạng đánh giá
“cào bằng” trong đánh giá năng lực như hiện nay.
Thứ tư, Đào tạo, bồi dưỡng, phát triển CB,CC người DTTS.
Thứ năm, Chế độ đãi ngộ đối với CB,CC người DTTS: đó chính là chi trả
tiền lương, các khoản phụ cấp, hỗ trợ khác tương xứng với sự đóng góp của CB,CC
người DTTS trong q trình làm việc.
Hiện nay, cấp ủy, chính quyền các tỉnh, địa phương trong cả nước đã có nhiều
chủ trương, giải pháp để tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, quản lý, bố trí, sử dụng và
thực hiện chính sách cán bộ, trong đó có cán bộ người DTTS; quy định trách nhiệm
của cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị trong đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng người
DTTS từng bước khắc phục tình trạng đội ngũ cán bộ, CC người DTTS
16


cịn thiếu, yếu về năng lực, chun mơn…, mất cân đối; tập trung chỉ đạo đổi mới
công tác quy hoạch, tạo nguồn đối với đội ngũ cán bộ, công chức người DTTS; thực
hiện rà sốt, bở sung, quy hoạch CBCC người DTTS các cấp, đặc biệt là các chức
danh chủ chốt ở các địa phương có đơng đồng bào DTTS. Nhờ vậy, tỷ lệ CB, CC
người DTTS nói chung và tỷ lệ cán bộ quản lý các cấp là người DTTS nói riêng
đang từng bước được nâng lên so với tỷ lệ dân số người DTTS trên địa bàn. Theo

Báo cáo Tổng kết quả thực hiện Đề án phát triển đội ngũ cán bộ, công chức,viên
chức người dân tộc thiểu số trong thời kỳ mới của Bộ Nội vụ, đến năm 2020, cả
nước có khoảng 246.586 CB, CC, VC người DTTS, đạt tỷ lệ 12,5% trong tổng số
CB,CC, VC cả nước, trong đó, ở cơ quan Trung ương gần 8.158 người, chiếm tỷ lệ
0,29%; ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là 238.428 người, chiếm tỷ lệ
13,5%. Về trình độ, số CB, CC người DTTS được đào tạo chuyên môn là hơn
17.600 người, chiếm tỷ lệ 4,7% số CB, CC được đào tạo của cả nước; lý luận chính
trị là gần 14.400 người, tương ứng 3%; quản lý nhà nước: 7.368 người, đạt gần
9,5%; kỹ năng nghiệp vụ là gần 35.500 người, đạt tỷ lệ 8,5%. Tỷ lệ cán bộ người
DTTS đạt trình độ sau đại học ngày càng tăng.
Đội ngũ CB, CC người DTTS được cơ cấu ở cả Trung ương đến cơ sở, trong
đó có 6,94% số CB, CC người DTTS đảm đương các chức vụ từ cấp huyện trở lên.
Cụ thể, trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, có 8,75% Ủy viên Trung
ương Đảng là người DTTS; số đại biểu người DTTS tham gia Quốc hội khóa XIII
chiếm tỷ lệ 15,6%. Cũng theo Báo cáo giám sát của Hội đồng Dân tộc tại 36 tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương, số lượng cán bộ DTTS được bầu vào Ban Chấp
hành Đảng bộ tỉnh chiếm khoảng 15,5%; Hội đồng nhân dân cấp tỉnh chiếm khoảng
17,84%; chính quyền có 78 người; ở cấp huyện, số CBCC người DTTS tham gia
Ban Chấp hành chiếm khoảng 14,6%; đại biểu Hội đồng nhân dân chiếm khoảng
22,2%; chính quyền có 392 người. Ở cấp xã, số CB, CC người DTTS tham gia ban
chấp hành chiếm khoảng 7,79%; đại biểu hội đồng nhân dân chiếm khoảng 14,88%;
chính quyền có 4.875 người (Nguồn: Hội đồng Dân tộc Quốc hội khóa XIII)
Như vậy, hiện nay, đội ngũ CB, CC người DTTS ngày càng trưởng thành về
năng lực, phẩm chất, đáp ứng tiêu chuẩn chung của hệ thống chính trị các cấp. Sự
trưởng thành của đội ngũ CB, CC người DTTS là do sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo,
17


đầu tư kinh phí của Đảng, Nhà nước, các ban ngành Trung ương và các đại phương
trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ, lý luận

chính trị cho cán bộ người DTTS. Đồng thời chứng tỏ sự vươn lên vượt bậc của các
DTTS nhằm thực hiện quyền bình đẳng dân tộc. Cơng tác phát triển CB,
CC đã tạo điều kiện cho đội ngũ CB, CC người DTTS phát huy trí tuệ, tâm huyết để
hồn thành nhiệm vụ chính trị được giao. Đội ngũ CB, CC người DTTS góp phần
quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS và đóng góp vào thành
cơng của cơng cuộc đởi mới của đất nước.
1.2.2. Vị trí, vai trò của Cán bộ, cơng chức là người dân tộc thiểu số
- Cán bộ, công chức là người DTTS có vị trí, vai trị rất quan trọng trong
thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội – văn hóa của từng địa phương, đảm
bảo an ninh chính trị, an ninh quốc phịng, trật tự an toàn xã hội trong các vùng
đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Với các tỉnh có đơng đồng bào dân tộc thiểu
số sinh sống, trong đó có tỉnh Cao Bằng thì CB, CC là người DTTS cịn như một
chiến sĩ mặt trận trong việc đấu tranh với những biểu hiện của các thế lực thù địch
lợi dụng lòng tin của đồng bào DTTS để chống phá sự xây dựng, phát triển của dân
tộc, nhất là vùng giáp ranh biên giới, đồng thời cũng là nhân tố kết nối và thực hiện
khối đại đoàn kết toàn dân tộc...
- Cán bộ, cơng chức là người DTTS nói chung, ở tỉnh Cao Bằng nói riêng là
lực lượng trực tiếp tở chức triển khai, thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân, nhất là đến với người dân ở
những vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Họ là cầu nối để phản ánh tâm
tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân và của đồng bào dân tộc thiểu số đối với
Đảng và Nhà nước để điều chỉnh, bổ sung, hồn thiện chính sách.
- Cán bộ, cơng chức là người DTTS có ảnh hưởng tích cực đối với đồng bào
DTTS, nhất là đối với chính đồng bào của dân tộc mình thơng qua phong tục, tập
qn và ngơn ngữ giao tiếp. CB, CC người DTTS là người lãnh đạo, quản lý, ý kiến
của họ có sức thuyết phục, hành động của họ có thể lơi cuốn lan tỏa rộng. Do đó
việc đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và phát triển cán bộ, cơng chức là người DTTS,
trong đó có những người có uy tín là CB, CC cấp xã, thơn là khai thác lợi thế từ

18



khía cạnh văn hóa, tập qn của vùng đồng bào DTTS và miền núi trong việc thực
hiện các chính sách và xây dựng đất nước.
1.3. Nội dung thực hiện chính sách phát triển CB, CC là người DTTS
1.3.1. Các văn bản quy định của nhà nước về chính sách phát triển CB,
CV là người DTTS
Luật Cán bộ, công chức 2008; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật cán
bộ, công chức và luật viên chức 2019; Nghị định 18/2010/NĐ-CP ngày 05/03/2010
của Chính Phủ về đào tạo, bồi dưỡng cơng chức và Nghị định 101/2017/NĐ-CP
ngày 01/9/2017 của Chính Phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức;
Quyết định 163/QĐ-TTg ngày 25/01/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề
án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016 – 2025; Chiến
lược công tác dân tộc đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại
Quyết định số 449/QĐ-TTg ngày 12 tháng 3 năm 2013; Quyết định số 2356/QĐTTg ngày 04 tháng 12 năm 2013 ban hành Chương trình hành động thực hiện Chiến
lược công tác dân tộc đến năm 2020; từng bước hồn thiện hệ thống chính sách
pháp luật, bảo đảm đồng bộ, góp phần nâng cao chất lượng, bảo đảm tỷ lệ hợp lý
đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số tham gia vào các cơ
quan của Nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập từ Trung ương đến cơ sở. Quyết định
402/QĐ-TTg ngày 14/03/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển
đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số trong thời kỳ mới;
Quyết định số: 771/QĐ-TTg ngày 26/06/2018 của Thủ tướng Chính phủ về phê
duyệt Đề án bồi dưỡng kiến thức dân tộc đối với cán bộ, công chức, viên chức giai
đoạn 2018 -2025; Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT-BNV-UBDT ngày

11/9/2014 của Bộ Nội vụ, Ủy ban dân tộc quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành chính sách cán bộ, cơng chức, viên chức người dân tộc thiểu số quy định
tại Điều 11 Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 của Chính phủ về
cơng tác dân tộc, hàng năm, khi xây dựng Kế hoạch tuyển dụng công chức.
1.3.2. Các nội dung cơ bản của thực hiện chính sách phát triển CB, CV là

người DTTS
Nội dung của cơng tác thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng, phát triển
cán bộ, công chức là người DTTS gồm các nội dung sau:
19


- Hoàn thiện hệ thống thể chế về tuyển dụng, sử dụng và quản lý đội ngũ
CB, CC là người DTTS.
- Tiếp tục triển khai Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức và các văn bản
hướng dẫn thi hành. Thực hiện đúng, đầy đủ, có hiệu quả các chế độ, chính sách ưu
tiên đối với cán bộ, cơng chức, viên chức người DTTS; Nghiên cứu xây dựng, sửa
đổi, bổ sung chính sách có tính đặc thù trong tuyển dụng, nâng ngạch, thăng hạng;
chế độ chính sách trong đào tạo, bồi dưỡng; tiêu chuẩn; Điều kiện trong quy hoạch,
bổ nhiệm chức danh lãnh đạo, quản lý đối với cán bộ, công chức, viên chức người
dân tộc thiểu số; Nghiên cứu, quy định chế độ, chính sách thu hút nhân tài, trọng
dụng, đãi ngộ, chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội phù hợp đối với người có tài
năng trong hoạt động công vụ và hoạt động nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức người dân tộc thiểu số.
- Về phát triển CB, CC là người DTTS cần chú ý và tập trung vào công tác
đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho CB, CC người DTTS: Tiếp tục triển khai
chương trình đào tạo mới, đào tạo lại, bồi dưỡng để củng cố, nâng cao năng lực,
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, các kỹ năng làm việc cho CB, CC người DTTS.
Việc đào tạo, bồi dưỡng để đội ngũ cán bộ, công chức là người DTTS nắm bắt được
đầy đủ, cập nhật kiến thức về lí luận và thực tiễn là một việc làm quan trọng và cần
thiết để đội ngũ CB,CC có cơ hội và điều kiện để phát triển, trong đó đã có nhiều
chương trình đào tạo, bồi dưỡng được thực hiện như: đào tạo, bồi dưỡng về lí luận
chính trị; đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ theo lĩnh vực mà CB, CC
đang đảm nhiệm; bồi dưỡng kiến thức, kĩ năng quản lí nhà nước; đào tạo, bồi dưỡng
về tin học, ngoại ngữ, tiếng dân tộc, kiến thức về quốc phòng, an ninh…. Bên cạnh
đó, nhiều chương trình, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng CB, CC người DTTS phải căn

cứ vào các chương trình, thực tiễn của đất nước. Cụ thể, Xây dựng chương trình bồi
dưỡng kiến thức dân tộc cho CB, CC, VC theo 4 nhóm đối tượng: Đối tượng 1
(Lãnh đạo cấp tỉnh và tương đương); đối tượng 2 (Lãnh đạo cấp Sở và tương
đương); đối tượng 3 (Lãnh đạo cấp Phịng và tương đương); đối tượng 4 (cán bộ,
cơng chức, viên chức không giữ chức vụ lãnh đạo) theo Đề án 771 trong việc bồi
dưỡng kiến thức dân tộc cho CB, CC,VC; Tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung
chính sách liên quan đến cử tuyển để tạo sự thống nhất giữa cơ quan có thẩm quyền
20


cử với cơ quan có trách nhiệm đào tạo, cơ quan có trách nhiệm xem xét, tuyển dụng
theo vị trí việc làm sau khi sinh viên tốt nghiệp ra trường; Triển khai có hiệu quả các
chính sách về thu hút, trọng dụng, tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng CB, CC, VC người
DTTS. Thường xuyên kiểm tra, đánh giá, tổng kết, đề xuất các giải pháp để khơng
ngừng nâng cao trình độ, năng lực cho CB, CC, VC người DTTS bảo đảm phù hợp
với từng địa bàn vùng dân tộc thiểu số, cơ quan, tổ chức, đơn vị trực tiếp làm công
tác dân tộc.
Thực tế cho thấy việc phát triển đội ngũ CB, CC là người DTTS có sự khác
nhau ở mỗi vùng, địa phương. Tuy nhiên để phát triển đội ngũ này một cách hiệu
quả thì mỗi chương trình đào tạo, bồi dưỡng kiến thức nêu trên cần phải được đặt ra
là một yêu cầu cơ bản song vô cùng cần thiết cho mỗi CB, CC là người DTTS để họ
có lộ trình rèn luyện và chuẩn bị đầy đủ các yêu cầu cần thiết nhằm phát triển cá
nhân, đáp ứng được yêu cầu của thực tế công việc, của địa phương và sự phát triển
của quốc gia, dân tộc. Cụ thể:
- Đào tạo, bồi dưỡng trình độ lí luận là một yêu cầu cần thiết trong phát triển
CB, CC người DTTS bởi họ là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính trị của
đất nước, là người trực tiếp triển khai, quán triệt chủ trương, đường lối, chính sách,
pháp luật của Nhà nước đến nhân dân, trong đó có đồng bào dân tộc thiểu số nơi họ
đang sinh sống, công tác. Để đảm bảo việc triển khai thực hiện đúng chủ trương,
quan điểm và tạo được sự nhất trí cao trong đảng thì địi hỏi cán bộ, cơng chức là

người DTTS phải là người nắm bắt đầy đủ, đúng đắn các chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và có một trình độ lý luận chính trị nhất
định. Đào tạo, bồi dưỡng về Lý luận chính trị nhằm nâng cao lập trường tư tưởng
chính trị vững vàng, có thái độ chính trị đúng đắn, ý thức tở chức kỷ luật cao, có
phẩm chất đạo đức, lối sống tốt, tuân thủ nghiêm chỉnh nguyên tắc lãnh đạo của
đảng, hết lòng hết sức phụng sự Tở quốc, phục vụ nhân dân, góp phần hồn thành
tốt nhiệm vụ được giao cho CB, CC là người DTTS, nhất là trong bối cảnh quốc tế
và trong nước, trong đó có cả các yếu tố tích cực và tiêu cực đang nhiều tác động
mạnh mẽ đến sự phát triển, ổn định của mỗi quốc gia dân tộc.
- Đào tạo, bồi dưỡng trình độ chun mơn, nghiệp vụ là một nhiệm vụ quan
trọng, thường xuyên, cần thiết trong phát triển cán bộ, công chức người DTTS bởi
21


nó nhằm trang bị cho họ có kiến thức cơ bản, có kỹ năng, nghiệp vụ theo từng chức
danh vị trí việc làm và lĩnh vực cơng tác. Mặc dù, khi được tuyển dụng nhiều CB,
CC người DTTS đã có trình độ chun mơn nhất định, song do đặc thù ở các xã
miền núi, biên giới, vùng DTTS, nơi có nhiều đồng bào DTTS, cư trú ở nhiều vùng
khó khăn thì việc bố trí CB, CC theo chức danh vị trí việc làm, thủ tục hành chính
tại mỗi thời điểm, thời kỳ khơng phải là điều dễ dàng, cần có sự điều chỉnh cho phù
hợp. Ngoài ra sự phát triển của xã hội, của khoa học công nghệ, kĩ thuật hiện đại
cũng địi hỏi CB, CC nói chung trong đó có CB, CC là người DTTS phải nâng cao
năng lực chun mơn nghiệp vụ của mình. Thơng qua hoạt động đào tạo, bồi dưỡng
CB,CC mới có thể đáp ứng nhiệm vụ, yêu cầu mà thực tiễn đặt ra trong mỗi thời kì
nhất định, đồng trời đó được coi là những yêu cầu cơ bản, cần thiết để CB, CC được
bố trí, sắp xếp và phát triển nghề nghiệp. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của CB,
CC được thể hiện qua việc giải quyết công việc khoa học, linh hoạt, nhạy bén, qua
ngạch, bậc, hệ số lương. Đây là cơ sở, là nền tảng để CB, CC hoàn thành tốt nhiệm
vụ được giao, có những sáng kiến mới góp phần hồn thiện chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, là căn cứ để khẳng định năng lực phát triển của CB, CC

người DTTS.
- Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức tin học, ngoại ngữ, tiếng dân tộc là một yêu
cần thiết trong phát triển cán bộ, công chức người DTTS nhất là trong bối cảnh đởi
mới, hội nhập và tồn cầu hóa hiện nay. Tin học, ngoại ngữ được coi là các chứng
chỉ cần thiết nhằm giúp CB, CC có kỹ năng trong xử lý văn bản trên hệ thống máy
tính, ứng dụng công nghệ thông tin, đặc biệt trong việc triển khai thực hiện Chính
quyền điện tử, tra cứu, khai thác các thông tin cần thiết phục vụ cho công tác tốt
hơn. Ngoại ngữ là cơng cụ giúp CB,CC nói chung, CB,CC người DTTS những kiến
thức cơ bản có thể dùng để dịch thuật, giao tiếp, trao đổi, làm việc với người nước
ngồi hoặc các tở chức trong việc xử lý các thủ tục hành chính, quảng bá sản phẩm
của địa phương, đặc biệt Cao Bằng là một tỉnh giáp biên giới Việt - Trung nên việc
trang bị ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Trung, tiếng Anh là yêu cầu cần thiết trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng của địa phương cũng
như của đất nước hiện nay. Ngoài ra, việc CB, CC bồi dưỡng kiến thức DTTS, trong
đó có tiếng dân tộc sẽ giúp cho việc triển khai công tác được dễ dàng, thuận
22


lợi hơn bởi vì Cao Bằng là vùng có đơng đồng bào DTTS, điều kiện kinh tế xã hội
cịn khó khăn, hạ tầng giao thơng chưa đồng bộ, trình độ dân trí thấp, việc giao tiếp
và hiểu ngơn ngữ tiếng Việt cịn hạn chế, đồng thời cũng có nhiều dân tộc có mối
quan hệ đồng tộc bên kia biên giới...
- Bồi dưỡng kiến thức an ninh, quốc phòng cho CB, CC là người DTTS có
kiến thức về quốc phịng và an ninh hiện nay, trong đó đặc biệt là sự nhạy bén về
chính trị, về các thủ đoạn, âm mưu của các thế lực thù địch trong và ngoài nước lợi
dụng các vấn đề dân tộc để chống phá cách mạng Việt Nam, cách thức sử dụng các
loại vũ khí, vật liệu nở, các động tác phịng vệ cơ bản, các chủ trương, đường lối của
Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về Quốc phòng – An ninh cũng là một
yêu cầu quan trọng nhằm phát triển đội ngũ CB,CC.
1.3.3. Vai trò của thực hiện chính sách phát triển CB, CC người DTTS

Thực hiện chính sách cơng là một khâu quan trọng trong chu trình chính sách
bởi đó chính là cơng cụ thể hiện ý chí của chủ thể tác động đến các đối tượng bằng
các phương thức xác định. Song chức năng, vai trị của chính sách chỉ có thể thực
hiện khi nó tham gia vào quá trình triển khai thực hiện trên thực tế. Việc thực hiện
chính sách cơng là một u cầu tất yếu chứng minh cho sự tồn tại của chính sách, nó
là cơng cụ mà Nhà nước sử dụng nhằm thể chế hóa các mục tiêu của Đảng lãnh đạo
trở thành hiện thực. Wayne Hayes cho rằng, trong thực hiện chính sách có 4 trường
hợp xảy ra, đó là: (1) Chính sách tốt và thực hiện tốt đem đến thành cơng, có hiệu
quả; (2) Chính sách tốt nhưng thực hiện lại tồi, dẫn đến thất bại; (3) Chính sách tồi
song thực hiện tốt, có thể đem lại thành cơng; (4) Chính sách tồi và thực hiện cũng
tồi, dẫn đến thất bại kép.
Thực hiện chính sách phát triển CB,CC người DTTS có tầm quan trọng đặc
biệt để giải quyết các vấn đề thách thức và những vấn đề đang đặt ra từ thực tiễn
CB,CC người DTTS ở các vùng miền trong cả nước nhằm phát triển đội ngũ này
đảm bảo chất lượng đồng bộ và cơ cấu hợp lý đáp ứng ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ
mới.
Thơng qua thực thi chính sách phát triển CB,CC người DTTS để thực hiện
các chính sách cụ thể về đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng, quy hoạch, sử dụng CB,
CC người DTTS tại các địa phương: một mặt vừa để nâng cao trình độ giác ngộ, bồi
23


dưỡng phẩm chất chính trị, rèn luyện đạo đức lối sống; một mặt khác quan trọng
khơng kém đó là vừa trau dồi hình thành kỹ năng, chun mơn nghiệp vụ để nâng
cao năng lực hiệu quả thực thi công vụ của đội ngũ CB, CC người DTTS, đồng thời
khai thác tốt lợi thế lớn ở khía cạnh văn hóa, tập quán của vùng DTTS, góp phần
lớn vào việc tạo nên sự cân bằng, hài hòa về chất lượng hoạt động của hệ thống
chính trị các cấp ở địa phương; cũng như hiện thực hóa chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong thực tiễn xã hội.
Bên cạnh đó, thực hiện chính sách phát triển CB,CC người DTTS được thể

hiện chính ở sự bố trí, sử dụng CB,CC người DTTS đúng tiêu chuẩn, đúng người,
đúng việc đúng năng lực. Trên cơ sở thực hiện chính sách phát triển với các nội
dung nêu trên CB,CC người DTTS phát huy năng lực của bản thân để thực hiện
hiệu quả, chất lượng cơng tác thực tiễn, tạo sự đồn kết, đồng thuận và gia tăng
niềm tin trong nhân dân vùng DTTS đối với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước.
Trong thời gian qua, việc thực hiện chính sách phát triển CB, CC người
DTTS ngày càng khoa học, thiết thực và đáp ứng được với yêu cầu của thực tiễn
hơn, cụ thể các chính sách ban hành đều gắn với các giải pháp tổ chức thực hiện
cùng nguồn lực bảo đảm tính khả thi của chính sách. Cơng tác đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ người DTTS được quan tâm cụ thể với những đổi mới về nội dung
đào tạo, bồi dưỡng, chính sách đãi ngộ, sử dụng, bổ nhiệm. CB, CC người DTTS
được cử đi đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị ở tất cả các cấp học; tham gia các
chương trình chuyên viên, chuyên viên chính, chun viên cao cấp; bở sung cập
nhật kiến thức, kỹ năng về tin học, ngoại ngữ… Nhiều cán bộ trẻ, nữ người DTTS
được quan tâm cử tuyển đi học chuyên môn, nghề nghiệp ở các trường nội trú, đại
học, cao đẳng để trở về xây dựng quê hương; Nhiều CB, CC người DTTS đã được
bố trí việc làm theo bằng cấp học tập, bở nhiệm vào các vị trí lãnh đạo theo đúng
năng lực, đúng công việc. Tuy nhiên, trên thực tế triển khai, công tác quan trọng này
ở một số nơi chưa được thể hiện hoặc thể hiện một cách chưa đầy đủ; nhiều lĩnh vực
được quy định trong các văn bản luật nhưng chưa được cụ thể hóa; cịn chung
chung, thiếu tính hệ thống, đồng bộ và khả thi, chưa bảo đảm tính đặc thù hay gắn
với yêu cầu phát triển từng vùng, miền... Có những địa phương miền núi, số cán bộ
24


người DTTS chiếm tỷ lệ thấp so với tổng số cán bộ; có nơi chưa chủ động, tích cực
đào tạo cán bộ dân tộc, cán bộ người địa phương… Công tác phát triển CB, CC
người DTTS vẫn còn hạn chế về quy mô, cơ cấu đào tạo, khả năng tiếp cận tri thức,
kỹ năng của người học. Số CB, CC người DTTS được đào tạo về chuyên môn, về lý

luận chính trị chưa đạt tỷ lệ như mong muốn, nhất là đội ngũ CB, CC đang công tác
ở vùng sâu, vùng xa, giáp biên giới…điều kiện đường xá đi lại cịn khó khăn…
Thực hiện chính sách phát triển CB, CC người DTTS là cơ sở thực tiễn
thuyết phục để điều chỉnh hồn thiện chính sách tốt hơn. Thực tế cho thấy, trước yêu
cầu mới của công cuộc phát triển đất nước, chính sách phát triển CB, CC người
DTTS cần có những thay đổi, điều chỉnh phù hợp, nhất là cần tạo môi trường, cơ
hội để họ vươn lên. Sự hiểu biết và trách nhiệm của đội ngũ này là những yếu tố cần
thiết để thúc đẩy quá trình xây dựng năng lực nội sinh vùng đồng bào DTTS, cũng
như hiệu quả việc cụ thể hóa các chủ trương, đường lối. Thời gian tới, cần tiếp tục
thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ là người
DTTS cho từng vùng DTTS, cụ thể hóa thêm chính sách cán bộ đối với một số
vùng, nhóm dân tộc. Xây dựng đội ngũ để tăng cường tham gia vào bộ máy nhà
nước ở Trung ương và chính quyền địa phương các cấp đủ mạnh. Chú trọng làm tốt
công tác quy hoạch dự báo nguồn cán bộ DTTS để có chính sách đào tạo, bồi dưỡng
và sử dụng hợp lý, nội dung đào tạo gắn với thực tiễn và yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của vùng đồng bào DTTS nơi cán bộ cơng tác để hình thành đội ngũ đông về
số lượng, giỏi về chuyên môn.
1.4. Yêu cầu cơ bản đối với việc tổ chức thực hiện chính sách phát triển
CB, CC là người DTTS
- Bảo đảm sự thống nhất lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền đối với
cơng tác tuyển dụng, sử dụng, quản lý CB, CC người DTTS theo phân cấp quản lý
và theo quy trình, thủ tục.
- Chính sách đối với CB, CC là người DTTS phải đảm bảo góp phần nâng
cao số lượng, chất lượng đội ngũ CB, CC; đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội
vùng dân tộc và miền núi.
- Tăng tỷ lệ CB, CC là người dân tộc bảo đảm tỷ lệ hợp lý, trong đó khơng
tăng biên chế nhằm đảm bảo thực hiện các nội dung tại Nghị quyết số 39-NQ/TW
25



×